Tan nát những cánh rừng thiêng
Chỉ một buổi sáng cơn lũ kéo qua, ruộng nương, đồng bãi bản Mòng (xã Hua La, TP Sơn La) tan tác. Những cánh rừng thiêng không còn để che chở bản làng nữa. Người già than khóc: “ Trời phạt. Làng làm mất nhiều rừng quá nên phì pá ( ma rừng) nổi giận trừng phạt”.
Trong câu chuyện về rừng, ông chủ tịch Mặt trận Tổ quốc bản Mòng – Quàng Hôm thường mở đầu câu nói của mình bằng từ “hồi đó”. “Hồi đó” của ông là từ những năm 1980 trở về trước. Ông nói chuyện, giọng buồn tênh. Tôi nghe như có hai bản Mòng trong câu chuyện của ông.
“Hồi đó” ở bản Mòng
“Hồi đó tu xửa, pá heo của bản Mòng toàn những cây cổ thụ to lắm”. Đó là bản Mòng đã xa tít mấy chục năm trước trong trí nhớ của Quàng Hôm. Rừng nằm ở đầu bản hay cuối bản thì gọi là tu xửa và rừng để chôn cất người chết gọi là pá heo. Họ bảo chỗ nào có đất, có nguồn nước thì có chủ, có ma và những gốc cây to chính là nơi ma rừng trú ngụ. Người Thái sợ ma rừng, họ không dám động chạm vào những gốc cây ấy chứ đừng nói đến chuyện chặt phá.
Người Thái chết đi, người thân phải tìm một gốc cây trong rừng mà chôn họ. Cúng ma gọi hồn một tháng, sau đó họ không bao giờ làm kinh động đến phần mộ của người quá cố nữa. Người nào làm đổ cây cối xung quanh vào mộ sẽ bị dân làng phạt vạ. Còn trên rừng tu xửa, mỗi dịp xuân về bản làng lại nhộn nhịp làm lễ cúng, ba ngày không cho người nơi khác vào bản, cả bản không đi làm chỉ ở nhà chơi. Trong tâm thức, họ luôn có một nỗi sợ, một niềm thành kính với từng gốc cây trong những khu rừng thiêng. Họ sống cùng với rừng lại vừa sợ rừng.
Con suối Nậm La trước bản đỏ quạch, có chỗ trơ sỏi đá – Ảnh: Vũ Thủy
“Hồi đó con suối Nậm La chảy trước bản cứ cách vài chục mét lại có vũng nước trong. Dọc hai bên suối có những cây tự nhiên, những cây cổ thụ tỏa bóng xuống đẹp đẽ vô cùng”, Quàng Hôm như đang mơ màng về một xứ thần tiên. Bên những vũng nước trong ấy, chiều chiều đám trẻ chăn trâu đưa trâu về lại nhảy ùm xuống vẫy vùng trong làn nước trong trẻo, mát lành. Trẻ con ngày ấy không đứa nào không biết bơi. Đầu bản cuối bản đều có những gốc sấu tán to mấy người ôm không xuể.
Video đang HOT
Đến tận lúc đi chiến trận, Quàng Hôm vẫn mang theo hình ảnh đẹp đẽ ấy của bản làng để thao thức mỗi đêm hành quân. Nhưng rồi có dạo dân làng cứ đua nhau làm nhà gỗ. Nhà càng to càng đẹp. Thanh niên mới lớn trong bản chẳng còn sợ con ma rừng nữa. Chẳng mấy chốc những cây lớn trong rừng bị chúng chia nhau chặt không còn một cây. Pá heo, tu xửa đều tan nát. Quàng Hôm còn nhớ rõ về một cây đa cổ thụ đường kính hơn 2m. Đến cả cái giống đa vốn chẳng lấy gỗ bao giờ dân làng cũng không buông. Họ xúm vào chặt mấy ngày mới đổ, chia gỗ ra làm nhà. Quàng Hôm kể đến đó dừng lại rít điếu thuốc lào. Trong làn khói thuốc, ánh mắt ông buồn thảm: “Tiếc ghê lắm”.
Thiên nhiên trừng phạt
Dân làng đã phá sạch cây rừng nhưng lúc đó dòng Nậm La trước bản vẫn còn những vũng nước trong xanh và những tán cây xanh mát. Dân bản không chặt. Họ vẫn còn cần những cái cây ấy che chỗ tắm giặt. Trẻ con vẫn còn có chỗ bơi lội. Coi như vẫn còn một niềm an ủi với những người bản còn nhớ cảnh rừng như Quàng Hôm. Nhưng cả dòng suối dường như cũng biết đau nỗi đau cây rừng, giận nỗi giận cây rừng.
Không lâu sau đợt phá tu xửa, pá heo rầm rộ của dân bản Mòng, thảm họa khủng khiếp giáng xuống. Ngày 26/7/1991 trời mưa như trút nước, đến sáng 27 lũ về. Lũ ầm ầm đổ qua con suối Nậm La trước bản. Cũng may là sáng sớm nên chưa ai ra suối, xuống đồng nhưng trận lũ ấy Hua La vẫn có ba người chết trôi. Nghe tiếng lũ rầm rập, Quàng Hôm cũng chạy ra xem.
Giữa dòng nước đục ngầu đang gầm gào đổ xuống, những cây cổ thụ ngổn ngang đã được chặt đẽo chẳng biết từ đâu trôi về. Có những thân cây mắc kẹt ở những hòn đá to đường kính tới mét rưỡi. Dân làng nhìn lũ kinh sợ bảo rằng do trời làm hại. Dòng lũ giận dữ, hung hãn tràn tới, hoa màu, ruộng đồng chỉ còn là những bãi bùn lầy lội.
Cụ Lèo Văn Sáng 85 tuổi và cụ Quàng Văn Piến 87 tuổi, những người già còn sót lại trong bản, là những người cuối cùng vẫn còn tin vào thần linh. Họ bảo đợt lũ là do trời phạt. Mất nhiều rừng nên phì pá (con ma rừng) mới nổi giận trừng phạt.
Sau trận ấy, dòng suối Nậm La chỉ còn là một dòng chảy yếu ớt, đỏ ngầu, chẳng còn vũng nước trong xanh cũng chẳng còn cây cối tỏa bóng. Nhiều đoạn suối cạn khô trơ sỏi đá, dân đào vàng dựng lán trại đào đãi càng khiến dòng suối thêm thê thảm. Từ đó, cứ cách mấy năm bản Mòng lại bị lũ quét qua. Về sau Quàng Hôm và dân bản đi trồng lại rừng, những cơn lũ quét mới hiền dịu bớt.
Quàng Hôm đi học nhiều, làm cán bộ xã. Cũng chẳng biết rừng có thiêng hay không nhưng ông biết lũ là do không còn rừng. Cha ông người Thái có lý của họ khi tôn thờ rừng pá heo, rừng tu xửa ở hai đầu bản, để giữ cái nguồn nước, giữ cho mùa màng, nhà cửa không bị những cơn mưa lớn cuốn đi. Niềm thành kính của họ với rừng bắt nguồn từ mong muốn được bảo vệ. Tổ tiên của ông khôn ngoan, nhìn xa trông rộng hơn người Thái bây giờ!
Sau cơn lũ, nhìn cảnh làng tan hoang, Quàng Hôm cùng phụ lão trong bản xuống phòng lâm nghiệp xin giống cây chẩu, cây sấu, cây lát về trồng lại ở bản. Quàng Hôm chỉ tay ra khu rừng sấu, rừng lát trồng mới ngay sau nhà. Rừng cây giờ đã khép tán hết rồi và được giao cho hội phụ lão quản lý, chăm sóc kỹ lưỡng, không ai được chặt phá, kiếm củi, hằng năm chỉ tổ chức dọn phát bớt những cây nhỏ phía dưới. Ông bảo trước mắt gây rừng để bảo vệ nguồn nước, sau này nếu có khai thác cũng chỉ cắt tỉa chứ nhất định không cho chặt.
Trồng được kha khá rừng rồi, Quàng Hôm vẫn buồn. Ông bảo vẫn có rất nhiều người bản được tuyên truyền ra rả mà vẫn còn phát rừng ở bản này bản kia. Đất ngày càng chật, người ngày càng đông, quản lý đất không chặt chẽ, người ta tranh thủ để lấy đất, chiếm đất. Hầu như lớp già quan niệm rừng có thần linh canh giữ đều đã đi hết. “Người ta trồng rừng là do chủ trương của Nhà nước, gắn lợi ích cá nhân của họ, họ mới trồng, chứ ý thức trồng rừng để cải tạo tự nhiên thì hiếm lắm”.
Ông bảo có những lần ông được vào tận vùng sâu vùng xa của người Thái vùng sông Mã, thấy người ta vẫn còn những khu rừng tu xửa, pá heo nguyên sinh. “Trông rừng của họ, nghĩ mà tiếc cho người dân tộc Thái bản mình”. Ngày trước, rừng ở bản Mòng còn rộng hơn, nhiều cây to hơn thế.
Thần thoại bị mất
Người làng vẫn truyền tai nhau câu chuyện về con thuồng luồng, chủ vũng nước trong – chỗ suối Nậm La, suối Tong gặp nhau rộng hơn nghìn mét vuông.
Vào năm nọ cứ đêm về là có một chàng trai trẻ, rất bảnh trai đi tán tỉnh một cô gái xinh đẹp ở bản Nẹ. Trai gái Thái ngày xưa thường ngồi đầu sàn nói chuyện với nhau, cô gái ngồi dệt vải, xe sợi, bố mẹ không được nhìn mặt. Thế rồi chàng trai cô gái yêu nhau lúc nào không hay. Một lần chàng trai rủ cô gái đi thăm nhà. Cô gái đồng ý đi nhưng sợ bố mẹ dậy không thấy con sẽ lo lắng nên mới lấy cuộn dây sợi vừa đi vừa kéo theo. Đến sáng sớm bố mẹ cô gái gọi mãi chẳng thấy con gái đâu mới lần theo sợi chỉ. Sợi chỉ dẫn họ xuống thẳng vũng nước trong. Đến lúc này họ mới chắc mười mươi chàng trai trẻ đẹp đến tán tỉnh con gái họ hằng đêm là thuồng luồng, chủ vũng nước hóa thành. Thuồng luồng thấy cô gái xinh đẹp đã tìm cách tán tỉnh và bắt cô về làm vợ. Từ đó vũng nước trong trở lên rất linh thiêng.
Thế nhưng cái vũng nước trong nổi tiếng khắp vùng ấy giờ chỉ còn là bãi cát bồi trơ trọi sau cơn lũ khủng khiếp năm 1991. Và thần thoại về con thuồng luồng – chủ vũng nước xinh đẹp – cũng chẳng mấy người còn nhắc đến.
Theo 24h
Rừng... hòa giải
Vào rừng cãi nhau. Cãi xong rồi thì bao nhiêu hiềm khích sẽ được hóa giải. Nhờ vậy mà bản làng của người La Chí ở Bản Phùng (huyện Hoàng Su Phì, Hà Giang) luôn thuận hòa, yên vui.
"Tòa án" giữa rừng già
Bản Phùng là một trong những xã xa nhất về phía tây huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang). Đường lên Bản Phùng như con rắn vắt sườn dãy núi Tây Côn Lĩnh, một bên là núi đá dựng đứng, phía dưới là vực sâu hoang thẳm.
Sau mấy chục cây số đường cứ dốc lên mãi chẳng thấy xuống, bản làng La Chí hiện ra đẹp như cảnh thần tiên. Ruộng bậc thang đang vào mùa gặt chín vàng các sườn núi. Những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng bên những cánh đồng vàng óng. Phó bí thư Đảng ủy xã Long Văn Cương quần áo tề chỉnh đã chờ sẵn. Hôm nay anh là người đưa đường cho chúng tôi đi thăm "miếu cãi" trong khu rừng thiêng của người La Chí. Anh chỉ về phía cao nhất của Bản Phùng, nơi có một vệt xanh thẫm: "Rừng thiêng của người La Chí đấy. Miếu thiêng nằm trong đó". Lại tiếp tục đi lên.
"Miếu cãi" nằm sâu giữa rừng, cạnh một gốc cây to cổ thụ, gần ngôi đền cúng thần rừng. Khu rừng rậm rì những gốc cây to và vắng lặng. Nhà thấy cúng của bản nằm ngay chân rừng. Ngồi bên cái bếp nhà sàn đỏ lửa, rít một hơi thuốc lào từ điếu cày, thầy cúng Diêu Phù kể cho chúng tôi nghe về phong tục có từ ngàn xưa của người La Chí.
Thầy cúng Diêu Phù kể về "miếu cãi" trong khu rừng thiêng ngay phía trên ngôi nhà sàn của cụ
Từ thời ông cha xưa để lại, cái miếu nhỏ xíu xiu trong rừng ấy lại là "tòa án" to nhất của dân Bản Phùng. Những ân oán, thù hận, những nghi vấn, ngờ hoặc lẫn nhau của dân bản đều được đưa ra "xét xử" ở đây. Chuyện kể lại rằng: hễ ai có xích mích hay gây mất lòng, thù hận nhau hoặc nhà nào trộm cắp con trâu, con gà của nhau mà không có bằng chứng, tang vật, cứ tranh cãi dùng dằng thì cùng dắt tay nhau vào rừng để thần rừng phân xử.
Mỗi bên đều phải chuẩn bị lễ vật cúng thần rừng để giải oan, mổ con lợn, làm thịt con gà rồi vào rừng. Tám thầy cúng của bản sẽ đứng ra làm lễ mời thần rừng đến phân xử đúng sai. "Phiên xử" linh thiêng và hết sức đặc biệt giữa rừng tiếp tục khi các thầy cúng cho phép mỗi người trình bày oan khuất của mình cho thần rừng nghe, cho thầy cúng biết và người làng tường tận. Có sự chứng kiến của thần rừng nên chẳng ai dám nói dối. Làm lễ xong thì mở tiệc ngay giữa rừng đãi bà con dân bản, sau đó ai về nhà nấy. Bước ra khỏi rừng những mâu thuẫn, hiềm khích coi như "xí xóa", không bên nào được nhắc lại nữa. Không ít người trước khi vào rừng còn chối bay chối biến những hành vi sai trái của mình, nhưng bước vào miếu thiêng, sợ thần linh trừng phạt họ nhận lỗi rồi bồi thường thiệt hại cho "bên nguyên".
Theo quan niệm của người La Chí, tổ tiên họ là Hoàng Dìn Thùng. Thân thể ông là dãy núi đất trùng điệp trên đó các bản làng La Chí sinh tụ. Phần đầu của ông sinh ra người anh cả ở Bản Díu, người con thứ hai sinh ra từ bụng là Bản Phùng, còn người con út sinh ra ở chân là Bản Máy, Bản Pắng. Họ đều là anh em một nhà và có chung 10 cánh rừng thiêng. Anh Long Văn Cương, phó bí thư Đảng ủy xã Bản Phùng, cũng là người La Chí. Anh cho biết tục lệ linh thiêng ấy của ông cha vẫn tồn tại cho đến hôm nay, lễ giải oan không còn nhiều như xưa nhưng nó mang giá trị tinh thần rất lớn, khiến anh em La Chí trung thực, hòa thuận và đoàn kết với nhau hơn.
Anh Long Văn Cương bảo rằng dân bản tuyệt đối tin vào sự công minh của thần rừng. Họ phó thác chân lý cho thần rừng bởi họ tin rằng ai sai mà gian dối thì sẽ bị thần linh phạt, gà vịt, trâu bò, người trong nhà sẽ gặp nạn. Trong lịch sử của người La Chí, có lẽ bởi "tín nhiệm" thần rừng nên dân Bản Phùng chẳng mấy khi phải động đến tay chân hay "võ mồm".
Không biết những "miếu cãi" của người dân có từ bao giờ. Trong cuốn biên niên sử duy nhất của người La Chí không thấy nhắc đến, những người già nhất ở Bản Phùng cũng không thể nào tường tận, họ chỉ biết được rằng khi họ sinh ra tục lệ đã có rồi!
Mẹ cả của những cánh rừng sau núi
Người La Chí Bản Phùng với gần 500 hộ gia đình nằm trải dài một bên sườn núi, còn khu rừng thiêng nằm ngay chỗ cao nhất của bản, trên đỉnh Lủng Cẩu.
Dân làng La Chí sống dựa vào những cánh rừng thiêng. Thầy cúng Diêu Phù kể rằng nếu mùa màng bị sâu hại, trâu bò, con người mang dịch bệnh họ nghĩ ngay đến việc đã làm mạo phạm thần linh. Già bản sẽ bói để xem phải cúng ở rừng nào. Sâu bọ phá mùa màng cúng rừng này nhưng trâu bò chết lại cúng ở rừng khác... Từ ông thầy cúng già cho đến đứa trẻ ở Bản Phùng đều "coi rừng như mẹ cả". Và người La Chí sống chết cũng phải bảo vệ mẹ rừng.
Người già trong bản kể lại rằng hồi ấy chiến tranh diễn biến ác liệt, thằng giặc Pháp từ mạn Lào Cai, Yên Bái tràn sang Bản Phùng. Chúng đốt rừng, ùa vào nhà chém giết bà con dân bản, bắt trâu bò, gà vịt làm thịt bừa phứa linh đình suốt nhiều ngày. Rồi trong đám giặc ấy có nhiều tên hóa dại điên cuồng, sau chết gục bên cạnh con suối nhỏ dưới chân bản.
Từ đấy, dân Bản Phùng bảo vệ "mẹ rừng" như cơ thể của mình. Vậy nên mới có chuyện suốt dãy núi Hoàng Dìn Thùng, nơi người La Chí sinh sống, có những cánh rừng rậm chằng chịt đủ các loại cây dù xung quanh đồi trọc bao la. Trong rừng, những cây chò, cây sanh, cây lim rêu mọc quanh thân mấy người ôm vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Anh Triệu Tiến Quang, bí thư Huyện đoàn Hoàng Su Phì, bảo rằng rừng thiêng và tục cúng thần rừng hầu như tồn tại ở tất cả dân tộc anh em xứ Hà Giang này. Với người La Chí, rừng là nơi vô cùng tôn kính, nơi trang nghiêm để "tám hồn chín vía" cha ông trú ngụ. Cứ mồng 2 tết hằng năm, họ Long, họ Vương, họ Ly, họ Tận sẽ đại diện cho bà con vào rừng mổ trâu, mổ lợn, mổ gà cùng đôi cái bánh chưng vào miếu giữa rừng sâu để "diện kiến" thần linh. Những người La Chí ở Bản Díu, Bản Pắng, Bản Máy bên kia những quả núi cũng được báo tin đến dự.
Trong suốt hành trình đi tìm những câu chuyện rừng, không chỉ ở những bản làng La Chí, chúng tôi còn bắt gặp ở xã Thèn Chu Phìn, xã Tụ Nhân (Hoàng Su Phì, Hà Giang) những khu rừng cấm còn nguyên dáng dấp của sự hoang sơ nguyên vẹn.
Điểm chung nhất ở những nơi này là tự thân người dân bản không bao giờ đụng đến rừng. "Ở Bản Phùng, hầu như không mấy khi người dân dám vào rừng, đền thờ cũng không bước vào" - cụ Diêu Phù nói như đe chúng tôi. Ai chặt cây rừng bị bắt gặp sẽ bị dân làng phạt vạ, mổ trâu, mổ lợn cúng thần rừng. Từ sự tôn trọng rừng ấy mà trong những bản làng xa tít này, người ta vẫn có thể thấy được hình dáng ẩn dật của những cánh rừng hoang sơ và cô độc.
Người Bản Phùng chẳng còn ai biết những cánh rừng thiêng có từ bao giờ. Nhưng tục mổ trâu cúng thần rừng mồng 2 tết của người La Chí vẫn diễn ra hằng năm. Và cái "bảo tàng sọ trâu" của họ cũng chẳng ai đếm được đã mấy trăm chiếc.
Nhà sọ trâu nằm ngay chân rừng cãi. Từ nhà thầy cúng Diêu Phù, chúng tôi băng qua mấy thửa ruộng bậc thang đến một ngôi nhà bên cạnh cây mận chua trĩu quả. Nhà rộng chừng chục mét vuông, không có cửa, không có tường, chỉ có gỗ rừng làm cột kèo và mấy tấm fibro ximăng để che đậy mưa nắng. Ngang trên những cột kèo ấy là nhiều sọ trâu được xếp cẩn thận và ngay ngắn. Mỗi lần cúng thần rừng, dân bản sẽ làm thịt trâu đem vào rừng cúng. Sọ trâu đem về treo lên một cây tre khô đằng sau nhà sọ trâu. Khi nào cây tre này đổ gãy thì dân làng lại tiếp tục mổ trâu để cúng thần. Còn đầu trâu bị rơi xuống đất kia sẽ được đem vào "bảo tàng" của dân tộc chính là ngôi nhà sọ trâu. Sọ trâu theo năm tháng cũng hư nát dần mòn.
Bản Phùng đẹp ngây ngất như một bức tranh với những sườn ruộng bậc thang bao la, hùng vĩ. Người La Chí bắc ống tre dài cả chục, cả trăm mét dẫn nước từ trên khe núi xuống tưới tiêu ruộng đồng. Tổ tiên của họ chọn những cánh rừng thiêng cũng chính là những cánh rừng đầu nguồn. Nhờ những khu "rừng cãi", rừng thiêng mà nguồn nước cuối cùng cho đồng ruộng của người La Chí được bảo vệ.
Theo 24h
"Vàng tặc" đại náo xóm nghèo Mới đến đầu thôn Nà Nôm, xã Đường Âm, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang nhìn về phía bên kia là sự trơ trọi đến tàn khốc của nguyên một quả đồi. Vào đại bản doanh "vàng tặc" Do địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại là vùng sâu, vùng xa của tỉnh Hà Giang nên đường giao thông...