Tại sao phải ăn thực phẩm bẩn:Chỉ 10% yên tâm với miếng ăn mỗi ngày
Đa số người dân đều không yên tâm với thực phẩm đi mua, theo kết quả điều tra dư luận xã hội về an toàn thực phẩm do Văn phòng Quốc hội tiến hành cho thấy, chỉ có 10% người được hỏi rất yên tâm với thực phẩm sử dụng hằng ngày, trong khi có tới 59% chưa yên tâm và 27% khẳng định không yên tâm.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Hoàng Mai (Tiền Giang) đã phát biểu như trên tại phiên thảo luận ở hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toànthực phẩm giai đoạn 2011-2016 diễn ra ngày 5.6 vừa qua, Dân Việt xin đăng lại phần phát biểu này.
Đại biểu Nguyễn Hoàng Mai (Tiền Giang).
Qua nghiên cứu báo cáo của Chính phủ, báo cáo kết quả giám sát của đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 – 2016, về cơ bản tôi thống nhất với các nội dung của báo cáo đã phản ánh. Trong khuôn khổ thời gian có hạn, tôi xin phép trình bày ba nội dung có liên quan đến gợi ý của Tổng thư ký Quốc hội, về thực trạng tình hình quản lý nhà nước và một số kiến nghị.
Về thực trạng an toàn thực phẩm, có thể nói vấn đề thực phẩm không an toàn đây không phải là vấn đề mới phát sinh mà đã được lên tiếng từ nhiều năm nay. Từ năm 2009 Quốc hội khóa XII đã thực hiện giám sát tối cao về an toàn thực phẩm và ban hành một nghị quyết riêng về vấn đề này, đó là Nghị quyết đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, đến nay tuy đã có những chuyển biến nhất định trong kiểm soát an toàn thực phẩm, xong chuyển biến còn chậm và tình trạng thiếu an toàn thực phẩm vẫn đang xảy ra khá phổ biến ở nước ta, đang là vấn đề rất lớn gây bức xúc cho toàn xã hội. Đa số người dân đều không yên tâm với thực phẩm đi mua, theo kết quả điều tra dư luận xã hội về an toàn thực phẩm do Văn phòng Quốc hội tiến hành cho thấy, chỉ có 10% người được hỏi rất yên tâm với thực phẩm sử dụng hằng ngày, trong khi có tới 59% chưa yên tâm và 27% khẳng định không yên tâm.
Theo báo cáo của Chính phủ trong giai đoạn 2011 – 2016 đã kiểm tra theo kế hoạch trên 3 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh đã có trên 20% số cơ sở vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Các hành vi và hiện tượng vi phạm về an toàn thực phẩm thường thấy đó là bán thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hạn sử dụng, sử dụng các loại hóa chất bảo vệ thực vật không đúng quy định, sử dụng hóa chất bị cấm trong sản xuất, chế biến thực phẩm, thực phẩm giả, thực phẩm kém chất lượng, v.v…
Giết mổ lợn không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cũng theo Báo cáo của Chính phủ giai đoạn 2011-2016 có 1.007 vụ ngộ độc thực phẩm, với 30.395 người mắc, 164 người chết. Theo tôi đây chỉ là phần nổi của tảng băng ngộ độc thực phẩm. Vì thực tế xảy ra với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, tôi tin chắc rằng hàng năm chúng ta có hàng chục triệu ca tiêu chảy liên quan tới thực phẩm và người dân tự xử lý không được các cơ sở y tế ghi nhận. Bên cạnh đó còn hàng loạt bệnh tật nguy hiểm khác phát sinh từ việc tích tụ chất bẩn, chất độc hàng ngày thông qua thực phẩm không an toàn. Trong bối cảnh chung sống với thực phẩm không an toàn, một bộ phận dân cư có điều kiện tự trồng rau, nuôi heo, nuôi gà theo kiểu tự cung, tự cấp, đa số phó mặc sức khỏe, tính mạng cho số phận may rủi. Phòng bệnh hơn trị bệnh, khi phòng bệnh không được thì người dân bất an đó là điều đương nhiên. Để xảy ra tình trạng mất an toàn thực phẩm tôi thống nhất với nhận định trong báo cáo đánh giá của Đoàn giám sát của Quốc hội khi cho rằng trách nhiệm chính thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh thực phẩm.
Thứ hai, về thực hiện quản lý nhà nước. Nói chung các cơ quan chức năng đã nỗ lực thực hiện trách nhiệm của mình, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định hướng dẫn, tổ chức thực hiện, bộ máy tổ chức, trang thiết bị kỹ thuật từng bước được tăng cường, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đã được coi trọng, nhất là trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm trong các dịp lễ tết. Tôi đánh giá cao các nỗ lực quyết liệt của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trong quản lý an toàn thực phẩm, đặc biệt là trong thời gian hơn 1 năm gần đây. Tuy nhiên, thực tế trong giai đoạn vừa qua công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế, trong đó nổi lên những hạn chế lớn sau đây:
Video đang HOT
Thứ nhất, việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này còn hiện tượng cắt khúc, phân đoạn trong chuỗi từ trang trại đến bàn ăn, tạo nhiều khoảng trống chưa được xử lý có hiệu quả, cuối cùng vẫn là thực phẩm không an toàn và người dân phải chịu hậu quả. Phòng, chống thực phẩm không an toàn cần có một cơ quan thực sự giữ vai trò nhạc trưởng điều hành, phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.
Thứ hai, lực lượng làm công tác an toàn thực phẩm, nhất là lực lượng thanh tra chuyên ngành từ trung ương đến địa phương còn thiếu, có trường hợp còn hạn chế về chuyên môn, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của công việc.
Thứ ba, kinh phí cho hoạt động về quản lý an toàn thực phẩm trong giai đoạn vừa qua còn rất hạn chế so với yêu cầu, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí chi cho công tác này còn phân tán ở nhiều công việc, nhiều bộ phận, nhiều cấp khác nhau và chưa thực sự ưu tiên nội dung chi cho hợp lý.
Thứ tư, về thiết bị kỹ thuật phục vụ trong công tác quản lý chất lượng an toàn thực phẩm chưa được đầu tư đồng bộ hiện đại để đáp ứng yêu cầu công việc chuyên môn theo phân cấp quản lý hiện nay.
Thứ năm, công tác tuyên truyền triển khai thực hiện còn mang tính phong trào theo đợt, nhất là cơ sở.
Về các giải pháp kiến nghị về cơ bản tôi thống nhất với các giải pháp mà Chính phủ và đoàn giám sát của Quốc hội đã đề xuất, trong đó có các giải pháp về thể chế, chính sách, giải pháp về tổ chức thực hiện, đặc biệt các đề xuất giải pháp củng cố lại tổ chức bộ máy theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả tập trung đầu mối, bảo đảm cấp đủ ngân sách nhà nước cho công tác an toàn thực phẩm theo dự toán. Đặc biệt là cho phép sử dụng 100% tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm cho công tác an toàn thực phẩm cũng như tăng cường thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm, tăng cường trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Tôi cho rằng đây là các giải pháp mang tính đột phá để bảo đảm an toàn thực phẩm và tin tưởng các đề xuất giải pháp này sẽ sớm được triển khai thực hiện. Ngoài các giải pháp lớn mà Chính phủ và đoàn giám sát Quốc hội đề xuất, tôi xin kiến nghị thực hiện thêm một số giải pháp sau:
Một là, thiết lập đường dây nóng với số dễ nhớ kiểu 113, 115 để nhân dân phản ánh các vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm.
Hai, kiểm soát chặt chất xả thải từ các cơ sở sản xuất, đặc biệt từ các khu sản xuất tập trung, khu công nghiệp vì nhiều thực phẩm nhiễm bẩn do nguồn nước cung cấp cho vật nuôi cây trồng không được xử lý an toàn.
Ba, các tỉnh, thành phố nghiêm túc xem xét tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm, tức là 100% hộ gia đình và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thực phẩm trong việc công nhận xã nông thôn mới và phải coi đây là tiêu chí cứng không cho nợ.
Bốn, hiện nay hầu hết các thôn, làng, bản đều có hương ước, quy ước của mình và đây là cơ chế tự quản có hiệu quả để xử lý các vấn đề của cộng đồng. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã nên hướng dẫn các thôn làng đưa các nội dung về bảo đảm an toàn thực phẩm vào các hương ước, quy ước này. Một khi người dân đồng thuận, tự nguyện đưa nội dung này vào các hương ước, quy ước của mình thì họ sẽ đề ra cơ chế bảo đảm thực hiện, chắc chắn góp phần thúc đẩy bảo đảm an toàn thực phẩm, loại bỏ hiện tượng mỗi gia đình có 2 luống rau, 2 chuồng lợn, 2 chuồng gà phân biệt để dùng cho gia đình hay để bán.
Năm, có cơ chế chính sách phù hợp để huy động tốt hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ, vì phụ nữ là người có vai trò rất quan trọng trong việc trồng trọt, chăn nuôi, chế biến thực phẩm nhỏ lẻ tại cộng đồng cũng như bảo đảm an toàn thực phẩm bữa cơm hàng ngày trong gia đình.
Theo Danviet
Đừng làm hàng bẩn rồi khẩn Trời, Phật
Tôi thấy Mỹ quản lý an toàn thực phẩm (ATTP) rất hay, bằng hàng rào kỹ thuật nên tôi học hỏi và điều chỉnh để có thể áp dụng với điều kiện của Việt Nam.
Bà vừa từ EU trở về. Bà cũng từng đi Mỹ. Sau thảm hoạ môi trường do Formosa, nhiều người nói rằng, mang thực phẩm (xách tay) vào Mỹ vốn đã khó giờ còn khó hơn. Có phải luật EU dễ hơn Mỹ hay chuẩn mực của ta gần với EU hơn Mỹ?
- Tôi đi Mỹ trước khi bùng nổ thông tin về Formosa. Lúc xếp hàng làm thủ tục nhập cảnh, tự nhiên có con chó cảnh sát phi thẳng tới chỗ tôi đánh hơi. Cô cảnh sát hỏi tôi có mang đồ tươi sống à? Lục lọi một lúc mới phát hiện ra cái vỏ quýt bỏ quên trong balô từ hơn một tuần trước đó để đỡ say xe. Cái vỏ quýt chỗ vàng chỗ xanh, chỗ thì khô queo. Lấy nó ra xong, cô cảnh sát đánh dấu vào phiếu. Thì ra, họ có hẳn danh sách mấy món tươi sống và một số sản phẩm không được mang vào Mỹ. Tôi đoán nguyên nhân chính là những món được liệt vào danh sách liên quan đến an ninh sinh học. Vấn đề này EU và Mỹ kiểm soát theo các kiểu khác nhau, nhưng cả hai đều tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro, không thể nói EU dễ hơn Mỹ. Thực ra hàng rào kiểm dịch ở Mỹ khó lắm. Cần nói thêm, từ khi có sự cố Formosa, FDA đòi hỏi các sản phẩm thuỷ hải sản từ Việt Nam vào Mỹ phải khai báo thêm về nguồn gốc khai thác, thời điểm thu hoạch.
Bà Nguyễn Kim Thanh: nếu mua được chứng nhận, thì lỗi của cả nhà sản xuất và tổ chức chứng nhận, còn tiêu chuẩn chứng nhận vô can. Làm sao thay đổi điều này, tôi nghĩ họ biết rất rõ. Ảnh: Đỗ Khuê.
Tôi thấy Mỹ quản lý an toàn thực phẩm (ATTP) rất hay, bằng hàng rào kỹ thuật nên tôi học hỏi và điều chỉnh để có thể áp dụng với điều kiện của Việt Nam.
"Hàng rào" đó nói lên điều gì, thưa bà?
- Hàng rào nói lên luật định và cách bảo vệ người tiêu dùng. Các nước chú trọng tính an toàn của sản phẩm vì đây là yêu cầu đầu tiên, là yêu cầu luật định nhằm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Họ đòi hỏi chất lượng, bao gồm ba đặc tính: ATTP, các đặc tính của sản phẩm mà người tiêu dùng quan tâm hoặc yêu thích (tính khả dụng), và giá sản phẩm (hay tính kinh tế).
Mối nguy luôn hiện diện trong thực phẩm. Do vậy, công việc của nhà sản xuất là nhận diện chúng một cách đầy đủ, đánh giá theo mức độ ảnh hưởng đối với người sử dụng và khả năng xảy ra để giữ chúng ở mức an toàn. Nếu nhà sản xuất mất kiểm soát đồng nghĩa với việc đánh mất lòng tin ở khách hàng, mất tính hợp pháp của sản phẩm và dĩ nhiên là mất thị trường. Nhà sản xuất sẽ mất ăn mất ngủ, ngày đêm cầu Trời khẩn Phật cho người dùng bình an. Khổ tâm không?
Những quy chuẩn theo luật định đã tạo quyền lực cho các cơ quan chức năng. Các doanh nghiệp vốn đã quen tuân thủ quy chuẩn nhà nước trong làm ăn. Theo bà, tiêu chuẩn tự nguyện (hay tiêu chuẩn hiệp hội) ở nước ta chắc khó phát huy theo kiểu tín thác công-tư?
- Lợi ích của hợp tác công-tư ở Việt Nam chưa được nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ. Cứ nhìn vào mức độ phổ biến của các tiêu chuẩn tự nguyện như BRC, IFS, ISO/FSSC 22000, GlobalGAP... sẽ hiểu. Những tiêu chuẩn tự nguyện không phải do luật của nước sở tại áp đặt, mà là do chính các nhà phân phối, bán lẻ, nhập khẩu yêu cầu. Các tiêu chuẩn này trước hết dựa trên sự phù hợp với luật định về ATTP và các vấn đề có liên quan (môi trường, sử dụng lao động). Nhà bán lẻ, phân phối của mình còn hời hợt quá nên thấy khó. Chỉ khi nào áp lực thị trường đủ lớn thì mới tạo ra sự thay đổi.
Nhà nước có lợi gì khi chấp nhận vai trò, tiêu chuẩn hiệp hội?
- Nhà nước sẽ được chia sẻ gánh nặng đảm bảo ATTP cho xã hội. Để tiêu chuẩn hàng Việt Nam được các nước chấp nhận, tôi nghĩ phải có sự tham gia của cả Nhà nước lẫn hiệp hội. Về phía hiệp hội cần phải đàm phán với các tổ chức ban hành tiêu chuẩn tự nguyện quốc tế và đưa ra lộ trình tiến tới công nhận tương đương. Đây là thách thức rất lớn, ít có hiệp hội đủ năng lực; nhưng nếu làm được việc này tôi nghĩ sẽ thuận lợi cho các bước tiếp theo.
Có quá nhiều tổ chức chứng nhận, nhưng hàng hoá vẫn bị trả về, nằm trong danh sách đen... nhưng đâu có cơ quan chứng nhận nào đứng ra chịu trách nhiệm dù phí kiểm định, chứng nhận. Nhiều chứng nhận quy trình bị nghi ngờ về giá trị. Vậy làm thế nào để tạo lòng tin?
- Hỏi câu này đụng chạm quá! Tổ chức chứng nhận chỉ tới doanh nghiệp vài ngày và việc chứng nhận chủ yếu cho hệ thống đảm bảo ATTP phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Việc vận hành hệ thống đó cuối cùng vẫn thuộc trách nhiệm của nhà sản xuất. Tôi không nghĩ chứng nhận bị nghi ngờ, mà là thái độ và trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn mà họ đang áp dụng mới là điều đáng nghi ngờ. Nếu mua được chứng nhận, thì lỗi của cả nhà sản xuất và tổ chức chứng nhận, còn tiêu chuẩn chứng nhận vô can. Làm sao thay đổi điều này, tôi nghĩ họ biết rất rõ.
Khi ban hành bộ tiêu chuẩn tự nguyện hay tiêu chuẩn hiệp hội, ngoài việc áp dụng các quy trình, cần phải có các biện pháp đảm bảo sự minh bạch, có kênh tiếp nhận phản hồi từ phía thị trường, và quan trọng phải có lực lượng thực hiện các kiểm soát phòng ngừa. Doanh nghiệp Việt đã nhiều lần uống "thuốc đắng" mà có "dã tật" đâu! Có lẽ họ uống chưa đủ liều.
Bà có thể cho một ví dụ về mô hình có triển vọng tín thác tại Việt Nam?
- Tiêu chuẩn HVNCLC - Hội nhập là một ví dụ. Tiêu chuẩn này đang được hội DN.HVNCLC hoàn thiện phần "nền móng", vậy mà không ít doanh nghiệp rên dữ lắm, vì tiêu chuẩn yêu cầu đảm bảo ATTP phải được duy trì suốt chuỗi cung ứng.
Với năng lực hiện tại của đa số nhà sản xuất thực phẩm trong nước, nhanh lắm cũng phải năm năm, khi nhận thức của nhà sản xuất trong nước được nâng cấp về ATTP. Dù khó nhưng phải làm để sản xuất kinh doanh trong nước tiếp cận chuẩn mực quốc tế.
Theo Hoàng Lan (Thế Giới Tiếp Thị)
Sông Nhuệ, sông Đáy: Nguồn thực phẩm bẩn cho 5 tỉnh, thành phố "Giai đoạn 2011 - 2016 ghi nhận 7 bệnh truyền qua thực phẩm làm mắc hơn 4 triệu ca bệnh với 123 người chết, trung bình mỗi năm có 668.673 ca bệnh và 21 người chết" - báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2016 của Quốc hội...