Sửng sốt với nghĩa địa mộ thân cây gỗ lim nguyên vẹn từ 3.000 năm trước ở Hưng Yên
Lớp vải, cói và lớp bồi đã tạo ra vỏ bọc xung quanh xác chết cứng, chắc chắn, yếm khí chẳng khác gì các xác ướp Ai Cập.
Chẳng ai rỗi rãi thống kê, so sánh xem nhà khảo cổ nào ở nước ta đào được nhiều mộ thân cây khoét rỗng nhất, tuy nhiên, trong những ngày lang thang theo ông Tăng Bá Hoành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương, tôi tin rằng, ông Hoành là người đã bỏ nhiều công sức nhất vào những chiếc mộ thân cây hình thuyền độc mộc.
Cả cuộc đời làm khảo cổ của ông, đã có tới hơn 30 năm đi đào mộ cổ và số lượng mộ thân cây được ông và các cán bộ đào lên nhiều nhất.
Hầu hết những chiếc mộ thân cây cổ nhất, đẹp nhất, nguyên vẹn nhất đều được quật lên từ lòng đất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, vùng đất mà ông gắn chặt cả sự nghiệp khảo cổ của mình. Mộ thân cây cũng được tìm thấy rải rác ở vùng Hải Phòng, Quảng Ninh, nhưng so với vùng Hải Hưng cũ thì không đáng kể.
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, ông Tăng Bá Hoành đã phát hiện ra nghĩa địa mộ thân cây khổng lồ ở làng Động Xá. Khi người dân đào đào ao, phát hiện loại mộ táng này, ông đã tức tốc về tận nơi, cùng nhân dân tát ao, tiếp tục đào xới. Kết quả, ông đã đào lên được hàng chục chiếc mộ thân cây tuyệt đẹp, vẫn còn nguyên vẹn.
Ông Tăng Bá Hoành bên những chiếc mộ thân cây được bảo quản sơ sài ở Bảo tàng Hải Dương.
Dùng các phương tiện thô sơ để dò, chỉ trong thời gian ngắn, ông đã phát hiện thêm được 100 ngôi mộ dưới lòng đất trong phạm vi chừng 2ha.
Việc phát hiện nghĩa địa mộ thân cây tập trung dày đặc trên phạm vi một thôn, đã gây chấn động, bàng hoàng không những giới khảo cổ trong nước, mà gây ngạc nhiên cho cả giới khảo cổ học quốc tế.
Điều đặc biệt là nghĩa địa mộ thân cây này có niên đại rất cổ, thậm chí có ngôi đến 2.500, thậm chí 3.000 năm.
Sau một thời gian khai quật, nghiên cứu và công bố, ông Hoành cũng như các chuyên gia khảo cổ học quốc tế đều công nhận nghĩa địa mộ thân cây khoét rỗng hình thuyền của cư dân Đông Sơn ở Động Xá còn nguyên vẹn và đẹp nhất Đông Nam Á. Những ngôi mộ này sẽ là kho sử liệu quý giá, giúp các nhà khoa học phục dựng lại đời sống của cư dân Đông Sơn xa xưa.
Ngoài những ngôi mộ khai quật được ở nghĩa địa mộ thân cây Động Xá, ông Hoành còn khai quật được khá nhiều mộ dạng hình thuyền độc mộc ở Hải Dương.
Năm 2001, cả nước phải sửng sốt với hai ngôi mộ thân cây khoét rỗng hình thuyền ở Kiệt Thượng (xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương). Đây là hai ngôi mộ cực kỳ nguyên vẹn, mặc dù đã có tuổi 2.000 năm.
Mọi thứ trong ngôi mộ còn nguyên. Xương cốt đầy đủ, thậm chí quần áo bằng vải thô còn bền, đồ tùy táng cực kỳ hoàn chỉnh. Kể cả những hạt quả vải tu hú (vải trái mùa, ăn chua) vẫn còn. Cung tên bằng đồng còn nguyên cả cán.
Mộ thân cây trong lồng kính ở Bảo tàng Hải Dương.
Đặc biệt là chiếc di đồng rất đẹp, là thứ đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam. Di đồng là vật dụng của quan lại, nhà giàu, dùng để rửa tay, rửa mặt.
Trong mộ còn rất nhiều vật dụng khác như thau đồng, đai lưng đồng, thố đồng, bát đồng, giáo đồng, lao đồng, rìu đồng, tấm che ngực bằng đồng, nồi đồng, kiếm sắt, nhĩ bôi (chén hình tai), ghế gỗ, vỏ quả bầu…
Trong lòng thân cây khoét rỗng thậm chí chứa rất nhiều xương chó, xương lợn. Điều này giải thích rằng, người Việt cổ quan niệm chết chỉ là đi về thế giới khác, nên cũng được chia của, để người chết mang theo sử dụng. Chính vì thế, người sống đã gửi cho người chết cả chó và lợn.
Sau khi khai quật chữa cháy ngôi mộ Kiệt Thượng 1, ông Hoành khẳng định sẽ còn ngôi mộ nữa, bởi ông biết rằng, mộ thân cây thường “có đôi”.
Video đang HOT
Và quả thực, không lâu sau, ông cùng đồng nghiệp đã lại quật lên mộ thân cây Kiệt Thượng 2, ngay cạnh đó, cũng đẹp và hoàn chỉnh không khác gì ngôi Kiệt Thượng 1.
Từ hai ngôi mộ đặc biệt này, các nhà khoa học có thể dựng lại khá chi tiết đời sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng thời đó. Còn các nhà nhân chủng học, với bộ xương nguyên vẹn, có thể miêu tả, phục dựng khá chi tiết hình dáng người Việt cách nay 2.000 năm.
Con sông ở làng Động Xá, nơi đào được cả trăm mộ thân cây dưới lòng sông.
Nói đến chuyện phục dựng đời sống thời Đông Sơn, thậm chí phục dựng cả khuôn mặt, dáng vóc người Đông Sơn, không thể không nói đến TS. Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á.
Ông Việt là người đã phục dựng thành công khuôn mặt phụ nữ thời Đông Sơn thông qua một hộp sọ của người phụ nữ. Qua đó, chúng ta có thể hình dung rõ ràng hơn về tổ tiên xa xưa của mình.
Dù nghiên cứu mộ thân cây khoét rỗng, còn gọi là mộ thuyền sau ông Hoành, song TS. Nguyễn Việt là người say mê loại mộ này đến quên ăn quên ngủ. Tuy nhiên, ông Việt không đồng ý với cách gọi loại mộ táng này là mộ thuyền, mà ông gọi là mộ hình thuyền, hoặc gọi theo cách gọi của thế giới là mộ thân cây khoét rỗng.
Thực tế, cho đến lúc này, chúng ta mới chỉ phát hiện duy nhất một ngôi mộ làm bằng chiếc thuyền, còn tất cả đều làm bằng thân cây khoét rỗng. Ngôi mộ làm bằng thuyền được phát hiện ở Động Xá. Đó là một chiếc thuyền, có thể là thuyền hỏng, được cưa đôi để làm quan tài. Bên trong chiếc thuyền chứa nhiều đồ tùy táng, song chỉ là đồ cũ, hỏng, vỡ, ít giá trị.
Ông Việt kết luận, đó là một ngôi mộ của người nghèo và họ nghèo đến nỗi, không có được chiếc quan tài đục bằng thân cây rỗng như bình thường, nên phải cưa chiếc thuyền hỏng làm quan tài.
Sau khi sự kiện mộ thân cây khoét rỗng được phát hiện ở Động Xá, TS. Nguyễn Việt đã đặc biệt quan tâm đến khu vực này.
Vào năm 2002, ông đã tìm về Động Xá và đi khảo sát một vòng. Không cần đào bới, khai quật, ông dễ dàng nhìn thấy những chiếc mộ thân cây lòi ra ở bờ mương.
Gò đất này chôn rất nhiều bộ xương cổ do người dân Động Xá cải táng khi đào trúng mộ thân cây.
Nhìn cảnh di sản quý giá bị bỏ rơi, ông Việt rất đau xót, đã gặp lãnh đạo Bảo tàng tỉnh Hưng Yên đề xuất việc khai quật, kinh phí do ông bỏ ra. Tuy nhiên, đề xuất của ông đã không được đáp ứng.
Năm 2004, qua dự án nghiên cứu về đời sống cư dân Đông Sơn của các nhà khoa học Australia, TS. Nguyễn Việt mới được tiếp cận trực tiếp với nghĩa địa mộ thuyền Động Xá thông qua các cuộc khai quật.
Cuộc khai quật nhiều ngày ở Động Xá đã để lại cho TS. Nguyễn Việt nhiều cảm xúc, bởi ông đã có vô vàn phát hiện mới mẻ.
Ông không khai quật kiểu truyền thống, cứ phá mộ, rồi vẽ sơ đồ, ghi chép, sau đó thì hoàn táng cho người chết, rồi cuối cùng di vật cũng tan nát cả. Khi phát hiện một ngôi mộ thân cây còn nguyên vẹn, TS. Nguyễn Việt đã cho máy cẩu, nhấc cả ngôi mộ bằng thân cây và lập tức đem về phòng thí nghiệm.
TS. Nguyễn Việt đầy vẻ tự hào: “Chúng ta thấy xác ướp các vị vua Ai Cập thú vị là vì trải qua mấy ngàn năm, những xác chết đó vẫn còn nguyên. Nhưng chúng ta đâu biết rằng, tổ tiên chúng ta từ thời Đông Sơn, cách nay hơn 2.000 năm, cũng vẫn còn nguyên vẹn, từ quan tài thân cây hình thuyền, đến xương cốt, đồ tùy táng…”.
Theo TS. Nguyễn Việt, nếu phá ngôi mộ này ra ghi chép ngay tại bờ ruộng, lòng sông, thì sẽ chẳng thấy nó đặc biệt, vì sau đó, mọi thứ tan nát hết, nhưng để nguyên cả quan tài với xác ướp bên trong mà chiêm ngưỡng, thì thú vị không kém gì xác ướp Ai Cập.
Quan tài thân cây nguyên vẹn ở Bảo tàng Hưng Yên.
Ngay sau khi trục chiếc quan tài thân cây hình thuyền lên khỏi mặt đất, TS. Nguyễn Việt đã dày tâm ngày đêm cùng các chuyên gia vùi đầu nghiên cứu. Ông đã lập hẳn một cơ sở mới ở Quảng Ninh để phục vụ cho các cuộc nghiên cứu mộ thân cây.
Ông bảo, đã 6 năm trôi qua, kể từ ngày phát hiện ngôi mộ thân cây ở Động Xá, ông vẫn chưa thể khám phá hết được sự đặc biệt từ ngôi mộ này.
Riêng gỗ để sử dụng làm quan tài, là vấn đề đau đầu với các nhà khoa học. Tuy nhiên, TS. Nguyễn Việt đã gửi mẫu gỗ sang Đức và bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, các nhà khoa học Đức đã xác định được loại gỗ làm quan tài chủ yếu là gỗ lim.
Điều đặc biệt là quan tài được chôn dưới lòng đất, đầy bùn nhão, song bên trong quan tài lại chỉ có một lớp phù du đậm đặc, cực mịn. Lớp phù du này đã ngấm qua các thớ gỗ, thân cây suốt cả ngàn năm vẫn chưa đầy lòng quan tài.
Như vậy, theo TS. Nguyễn Việt, để làm được một chiếc áo quan bằng thân cây khoét rỗng, với phương tiện rất thô sơ, người Đông Sơn đã phải rất kỳ công.
Từ việc hạ cây gỗ lim khổng lồ, vận chuyển từ rừng xuống đồng bằng, rồi chẻ làm đôi, đục thành máng như cái thuyền, rồi mài dũa để khi lắp vào khít đến mức nước không ngấm qua được là cả một quá trình tốn rất nhiều công sức. Chỉ có những cư dân của xã hội no đủ, có thừa thãi thời gian, mới làm được những chiếc quan tài như thế.
Khi người chết được đặt vào quan tài, tấm thiên đậy lại, người ta tiếp tục dùng chất kết dính bôi kín, rồi đóng mộng thật khít, tạo ra môi trường yếm khí, nên mới bảo quản được xác lâu dài dưới lòng đất.
Ngoài việc làm quan tài cầu kỳ, thì việc “bảo quản” xác chết cũng rất kỳ công. Xác chết trong ngôi mộ thân cây mà ông khai quật được bọc bởi 40 lớp vải, rồi đến lớp cói. Mỗi lớp vải lại được bồi một lớp hợp chất kết dính như keo. Lớp vải, cói và lớp bồi đã tạo ra vỏ bọc xung quanh xác chết cứng, chắc chắn, yếm khí chẳng khác gì các xác ướp Ai Cập.
Những chiếc quan tài thân cây khai quật ở Động Xá được bảo quản sơ sài trong những bể nước ở Bảo tàng Hưng Yên.
TS. Nguyễn Việt tin rằng, nếu những xác chết này, cùng quan tài bằng thân cây được đặt trong môi trường khô ráo, yếm khí như trong các kim tự tháp, thì các xác chết cũng sẽ được bảo quản rất tốt.
Theo TS. Nguyễn Việt, ngoài vùng Động Xá, thì nhiều vùng khác ở Đồng bằng Sông Hồng, lòng đất vẫn bảo quản tốt mộ thân cây.
Qua các cuộc nghiên cứu mộ táng thân cây, TS. Nguyễn Việt có thể dựng lại hình ảnh của xã hội Đông Sơn cách nay từ 2-3.000 năm.
Khi đó, đang diễn ra quá trình tiến biển. Lớp phù sa phủ mặt đất dày chừng 10cm (hiện giờ phù sa đã dày 70cm). Người Đông Sơn từ các vùng núi tiến xuống, chỉ cần rắc hạt lúa xuống đất là có ăn. Thời đó, trình độ canh tác lúa nước đã đạt tới đỉnh cao, nghề trồng lúa đã rất hoàn thiện.
Những chiếc mộ thân cây chính là cánh cửa để tìm hiểu về xã hội Đông Sơn thời xưa, xã hội mà chúng ta ngày nay có rất ít thông tin và sự hiểu biết. Phát hiện này cho phép khẳng định tổ tiên trực tiếp của người Việt Nam là những người đã sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.
Cũng qua những hiện vật bằng đồng tìm được trong mộ thuyền Đông Sơn, đặc biệt là những chiếc trống đồng, có thể khẳng định rằng, kỹ thuật, mỹ thuật đúc đồng, cũng như văn hóa của người Việt thời Đông Sơn đã đạt trình độ khá cao, không kém gì những nền văn minh đương thời trong khu vực.
“Qua những chứng cứ tìm được từ mộ thân cây, chúng ta có thể tự tin tự hào về tổ tiên mình, là những người thông minh, sáng tạo, đầy tài hoa, chứ không phải là một bộ lạc nguyên thủy, đóng khố, sống trong hang đá, đàn ông chỉ biết đi săn, đàn bà chỉ biết hái lượm, trong những câu chuyện cổ tích” – ông Tăng Bá Hoành rưng rưng tự hào nói như vậy.
Phạm Dương Ngọc
Theo VTC News
Khám phá thú vị: Việt Nam là cái nôi của trống đồng
Theo lập luận của GS Nguyễn Văn Hảo, trống đồng ra đời ở Việt Nam và được người Trung Quốc mang về làm thêm một số họa tiết.
Hoa văn trống đồng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ
GS Nguyễn Văn Hảo, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ về nguồn gốc của trống đồng cổ có hàng chục năm nghiên cứu về các loại trống đồng, điều ông quan tâm nhiều nhất là chiều chuyển động của hoa văn trên trống đồng cổ. Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn có hai loại: Hoa văn hình học và hoa văn tả thực. Các họa tiết hoa văn hình học được tìm thấy trên đồ gốm của các văn hóa khảo cổ trước đó, đặc biệt trên đồ gốm của văn hóa Gò Mun. Khác với hoa văn hình học, hoa văn tả thực bắt nguồn từ cuộc sống, từ môi trường thiên nhiên mà cư dân Đông Sơn sinh sống. Hoa văn này đã ghi lại những cảnh múa và các con vật trên mặt trống đều chuyển động ngược hướng kim đồng hồ.
Để chứng minh điều đó GS Hảo đã phải nghiên cứu trên nhiều tư liệu. Ông đã đi tìm hiểu nguồn gốc của nền văn hóa cổ, cũng như tập quán sinh hoạt của các dân tộc ở nước ta. Đến nay một số điệu múa của dân tộc Tây Nguyên như trong điệu múa cồng chiêng, múa trong lễ đâm trâu mọi người xếp hình tròn đi theo ngược kim đồng hồ. Đặc sắc hơn nữa cách hát trống Quân của người Kinh trên mảnh đất vua Hùng Phú Thọ. Trai gái nơi đây xếp thành vòng tròn vừa đi theo ngược hướng ngược chiều kim đồng hồ để múa hát.
Trước đó, ở nước ta cũng có một số nhà khoa học đưa ra nhận định khác nhau về hướng chuyển động của hình vẽ trên trống đồng, người nói nó chuyển động ngược, người nói chuyển động xuôi theo kim đồng hồ. Tuy nhiên, những điều giải thích của họ chưa đúng với thực tế.
GS Hảo đã chứng minh được Việt Nam là cái nôi của trống đồng.
GS Hảo cho hay, trong hoa văn tả thực trên trống đồng Đông Sơn, chúng ta dễ dàng nhận ra một điều, hình ảnh đi biển của người Đông Sơn được thể hiện nổi bật nhất. Trên trời có chim bay, dưới nước là cá biển, rùa biển để "hộ tống" những chiếc thuyền đi biển, chiếc nọ nối đuôi chiếc kia vận hành theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Nghề đi biển đánh bắt cá, là nghề kiếm sống chủ yếu của người dân thời đó. Sinh sống nhờ biển, điều đó đồng nghĩa với việc họ phải đối mặt với bão tố. Vì thế, họ phải hiểu được quy luật của biển để có biện pháp tránh bão.
"Đường đi của bão trước khi đổ bộ vào đất liền thường xoay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Theo kinh nghiệm của những người đi biển, khi gặp bão, họ nhìn theo hướng vận động của trung tâm bão, khu vực nguy hiểm (nửa vòng nguy hiểm) sẽ nằm ở hướng di chuyển của bão. Tại khu vực này sóng to, gió lớn mạnh hơn bên trái hướng đi của bão (nửa vòng đi được). Hướng gió phía bên phải gần như đồng nhất với đường đi của bão, một khi thuyền bị gió đẩy vào trung tâm bão thì không thể thoát ra được người đi thuyền đối mặt với cái chết.
Mặt khác khi bão đổi hướng, phần nhiều đổi hướng bên phải, hướng gió thuận chiều kim đồng hồ chứng tỏ thuyền đang đi vào vòng nguy hiểm, nếu thuyền đi ngược chiều kim đồng hồ, chứng tỏ thuyền đang ở nửa vòng có thể đi được. Do vậy, hướng ngược chiều kim đồng hồ là hướng hy vọng, hướng sinh tồn của người đi biển và là thói quen của ngư dân Đông Sơn xưa.
Theo GS Hảo, người Điền Trung Quốc đã thêm hoa văn vào trống đồng của nước ta để nói nó là của mình. (Ảnh tư liệu).
Trống đồng có nguồn gốc ở Việt Nam
GS Hảo cho hay, hiện nay nhiều nước Đông Nam Á cũng có trống đồng. Nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc trống đồng có niên đại lâu hơn cả. Việc phân định trống đồng của nước ta có trước, hay Trung Quốc có trước vẫn là vấn đề gây tranh cãi trong giới chuyên môn. Một số chuyên gia khảo cổ học phương Tây cho rằng, Việt Nam là cái nôi của trống đồng, người Trung Quốc đã lấy mẫu trống đó về thêm một số họa tiết để đúc lại. Nhưng theo quan điểm thống trị của Trung Quốc thì trống đồng Vạn Gia Bá ở Vân Nam có đầu tiên, ra đời thứ hai là trống Đông Sơn, thứ ba là trống Thạch Trại Sơn.
Để phản bác điều đó nhiều nhà nghiên cứu của nước ta đưa ra lập luận khẳng định Việt Nam là cái nôi của trống đồng. TS Hảo đồng ý với ý kiến Cụ Đào Duy Anh cho rằng, trống đồng Đông Sơn ra đời đầu tiên, sau đó người Hán mới mang về biến cái đó thành của mình. "Không phải tôi là người Việt mà tôi nhất trí như vậy mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra. Khi nói tới trống đồng người ta thừa nhận là nhạc cụ gõ, yếu tố nào quyết định là nhạc cụ thì đầu tiên là hình dáng, mặt trống gõ phát ra âm thanh, thân trống là phần cộng hưởng. Thứ hai, hình dáng trống cũng quyết định đến âm thanh. Thứ ba, chất liệu chế tạo trống. Ba yếu tố đó không chỉ tạo thành âm sắc, âm vực của chiếc trống mà nó có ý nghĩa, nó biểu hiện hồn phách của dân tộc có trống đó, dân tộc nào vẽ hoa văn của dân tộc đó. Hoa văn trên trống đồng là hoa văn thể hiện văn hóa, của dân tộc chế tạo ra hoa văn đó chứ không phải mỗi trống có hoa văn riêng", GS Hảo cho biết.
Trong sách viết về nguồn gốc trống đồng của người Trung Quốc họ nói chiếc trống cổ do 6 dân tộc chế tạo, trong đó có người Lạc Việt. Số lượng trống tìm thấy là 46 chiếc. Điều đó là bất hợp lý, không thể 6 dân tộc lại chế tạo một loại trống.
Một chiếc trống Đông Sơn đã bị người Điền khoét đáy, làm thêm nắp.(Ảnh tư liệu)
Theo nghiên cứu của GS Hảo, chiếc trống Thạch Trại Sơn có hoa văn giống Đông Sơn, nhưng người Điền đã khắc thêm những hoa văn của họ, đè lên hoa văn của Đông Sơn. Trong hội nghị quốc tế tổ chức tỉnh Quế Lâm, Trung Quốc, khi TS Hảo phát biểu và đưa ra những giải thích khiến các nhà khoa học Trung Quốc cũng phải đồng ý. Chính một GS - Hiệu phó của trường Học viện Dân tộc học Quảng Tây tiến hành phân tích đồng vị chì chiếc trống ở Quý Huyện, Quảng Tây cũng khẳng định rằng, chiếc trống đồng cổ nhất của người Đông Sơn chế tạo. Bằng cách nào đó chiếc trống được đưa sang Trung Quốc và được thợ khắc thêm hoa văn trên trống.
Qua tìm hiểu của GS Hảo, những chiếc trống mà Trung Quốc nói là trống cổ của họ, được tìm thấy trong ngôi mộ của viên quan từng cai trị ở nước ta. Vì thế, ông ta mất đi, biết trống đồng quý đã bảo con cháu chôn cất trong mộ của mình. Giống như Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó lấy trống đồng về đúc ngựa. Do vậy, việc Trung Quốc cũng có những chiếc trống đồng bằng với niên đại ở nước ta là do họ đã mang về để sử dụng.
Những chiếc trống đồng Thạch Trại Sơn của người Điền có cách nay hơn 1 nghìn năm hoa văn tả thực hơn trống Đông Sơn, độ tả thực cao, chi tiết. Tay người đeo vòng, người mặc áo hoa kẻ sọc, có khuyên tai. Điều đó chứng tỏ người Điền lấy trống Đông Sơn cải tạo thành thùng đựng vỏ ốc, mặt họ phá đi đúc mặt mới làm nắp, dưới làm một cái đáy để bỏ vỏ ốc. Đối với người Điền thì ốc là tiền, những vỏ con ốc lợn được lấy từ biển của Ấn Độ, là những thứ rất quý. Những hoa văn gốc của trống như hình ảnh người mặc nửa trần, đội mũ lông chim đặc trưng người Đông Sơn đã bị cạo, khắc hình ảnh đặc trưng của người Điền.
Những lý giải của GS Hảo về trống đồng cổ của ông được Hội đồng nghiên cứu trống đồng Trung Quốc cũng phải công nhận là đúng. Tập luận văn nghiên cứu về trống đồng của GS Hảo hiện được Bảo tàng khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc ghi nhận và lưu giữ tại đây. Nhiều người trong giới chuyên môn đã công nhận Việt Nam là cái nôi của trống đồng.
Đức Hồng
Theo Kiến thức
Những vùng đất gây sốc vì bán nhà siêu rẻ, giá chỉ 26.000 đồng Trong khi không ít người phải chật vật cả đời dành dụm để mua nhà thì ở nhiều nơi tại Italia, nhà được rao bán với giá rẻ giật mình, chỉ 1 Euro (gần 26.000 đồng). Theo các chuyên gia, những nơi bán nhà siêu rẻ như trên hầu hết đều là những thị trấn vùng nông thôn ở Italia. Các ngôi nhà...