Sửa nghị định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Bán được nhiều thì tốt, sao phải đặt điều kiện số lượng?
Dự thảo sửa đổi Nghị định 90/2011/NĐ-CP về Phát hành trái phiếu doanh nghiệp do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo có nhiều điểm vẫn làm khó doanh nghiệp và thị trường, nếu được thông qua.
Hình minh họa. Nguồn Internet
Dự thảo sửa đổi Nghị định 90/2011/NĐ-CP về Phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện đã qua vài vòng lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan.
Tuy nhiên, tinh thần cải cách trong dự thảo này đã không được tiếp nối, thậm chí còn có nguy cơ gây nhiều khó khăn hơn cho cộng đồng doanh nghiệp trong việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.
Từ góc độ của nhà đầu tư trái phiếu, ngoài việc cân nhắc rủi ro của khoản đầu tư, thì tính thanh khoản của trái phiếu là một trong những yếu tố chính được xem xét trong quá trình ra quyết định đầu tư.
Tuy nhiên, Dự thảo Nghị định sửa đổi này quy định trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ chỉ được giao dịch trong phạm vi dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Như vậy, trường hợp trái phiếu đã do 99 nhà đầu tư (không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) sở hữu, nếu cần chuyển nhượng, nhà đầu tư sẽ phải tìm được đối tượng nhận chuyển nhượng toàn bộ khối lượng trái phiếu đang sở hữu mà không thể chuyển nhượng một phần.
Quy định này, do đó, gây bất lợi các nhà đầu tư, gây khó khăn cho họ khi muốn thoái vốn khỏi khoản đầu tư này trước ngày đáo hạn. Từ đó làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp, và giảm tính hấp dẫn của kênh đầu tư trái phiếu.
Về phía tổ chức phát hành, quy định trên có thể khiến doanh nghiệp khó huy động đủ số vốn cần thiết. Lý do vì 99 nhà đầu tư không đăng ký mua đủ số lượng trái phiếu phát hành. Lượng trái phiếu còn lại chưa được đăng ký mua, tổ chức phát hành cũng không thể tiếp tục chào bán cho nhà đầu tư có nhu cầu do số lượng nhà đầu tư đã đạt mức giới hạn mà nghị định đặt ra.
Chưa kể, tinh thần của quy định này chưa phù hợp với việc trái phiếu được tự do chuyển nhượng, sang tên (thông qua các hình thức mua bán, xử lý tài sản cầm cố, thừa kế, cho, tặng..). Luật Chứng khoán, Bộ luật Dân sự không cấm giao dịch và quyền giao dịch là quyền của người sở hữu tài sản.
Một điểm khác cũng cần đề cập tới ở đây là quy định báo cáo tài chính của đơn vị phát hành phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị có lợi ích công chúng theo quy định của Luật Kiểm toán độc lập.
Hiện tại mới chỉ có 32 doanh nghiệp được Bộ Tài chính chấp thuận đủ điều kiện để kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị có lợi ích công chúng. Trong khi có khoảng 1.400 doanh nghiệp niêm yết và 1.000 công ty đại chúng.
Như vậy, với quy định này, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ sẽ khó tìm được công ty kiểm toán và khó đảm bảo yêu cầu về chất lượng, thời gian của đợt phát hành, và phải chịu chi phí cao so với khả năng chịu đựng.
Chưa kể, Dự thảo đã quy định nhà đầu tư mua trái phiếu tự đánh giá mức độ rủi ro và tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình. Vì vậy, trái phiếu phát hành riêng lẻ mà buộc phải kiểm toán là không phù hợp.
Nếu cơ quan quản lý nhà nước vẫn muốn kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị phát hành thì chỉ cần sử dụng báo cáo kiểm toán của một công ty kiểm toán được cấp phép hoạt động tại Việt Nam là đủ. Bởi bản thân công ty kiểm toán cũng như kiểm toán viên đã phải tuân thủ những quy định của Luật kiểm toán độc lập rồi.
Ngoài ra, yêu cầu về công bố thông tin trước, trong và sau đợt phát hành quá nhiều và quá chi tiết, không khác gì một đợt chào bán trái phiếu ra công chúng, không phù hợp với một đợt phát hành riêng lẻ.
Như vậy, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc hết sức kỹ lưỡng những “rào cản” không đáng có, đi ngược với tinh thần “kiến tạo và hỗ trợ”, trong Dự thảo nghị định này, nếu không hệ lụy dẫn tới sẽ là tiếp tục gây mất cân đối giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ, đẩy lãi suất lên cao và từ đó gây áp lực lạm phát – trái ngược với chủ trương và quan điểm điều hành kinh tế hiện nay của Chính phủ.
Video đang HOT
Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ: “vẫn còn nhiều điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, chưa cải cách thực chất”.
Do đó, thời gian tới Chính phủ tiếp tục các giải pháp cắt giảm điều kiện kinh doanh doanh, cắt giảm chi phí, cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và tạo niềm tin thu hút mạnh hơn nữa đầu tư của lĩnh vực tư nhân, các tập đoàn lớn, tập đoàn xuyên quốc gia
Theo viettimes.vn
Đầu tư trái phiếu doanh nghiệp: Lãi cao hơn gửi tiết kiệm nhưng làm sao tránh rủi ro?
Nhà đầu tư trái phiếu có thể hưởng lãi trên 9%/năm với loại trái phiếu có kỳ hạn khoảng 3 năm. Đây là mức lãi suất cao, tuy nhiên cũng tiềm tàng những rủi ro.
Nếu bạn có nhu cầu đầu tư vào thị trường tiềm năng này thì những kiến thức cơ bản sau đây sẽ giúp bạn có cái nhìn tổng quát và quyết định đúng đắn khi đầu tư trái phiếu.
Theo tờ Thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu Việt Nam chỉ thực sự trở nên sôi động và đáng đề cập tới trong một vài năm gần đây, với minh chứng là những thương vụ phát hành trái phiếu trị giá hàng nghìn tỉ trong năm 2018.
Trước hết, cần phân biệt trái phiếu với cổ phiếu. Cổ phiếu là những chứng khoán thể hiện tư cách chủ sở hữu của cổ đông, trong khi đó trái phiếu lại là chứng khoán thể hiện một quan hệ vay mượn giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư.
Trái phiếu gồm 2 loại chính: trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Bài viết này sẽ chỉ thực hiện phân tích về loại trái phiếu tiềm năng hiện nay là trái phiếu doanh nghiệp.
Khi các công ty lớn cần vay tiền trong một khoảng thời gian dài, họ có thể phát hành trái phiếu. Đa số các trái phiếu công ty trả lãi một năm hai lần và phần lớn cũng là những trái phiếu có thể mua lại.
Mức độ rủi ro là rất khác nhau giữa các phát hành bởi rủi ro vỡ nợ phụ thuộc vào sức khỏe của công ty, mà sức khỏe đó lại chịu tác dộng của một số biến số. Lãi suất của trái phiếu công ty thay đổi theo mức rủi ro hoặc những đặc điểm tính chất riêng.
Những đặc trưng của trái phiếu
Trái phiếu có đăng ký (ký danh) và không có phiếu trả lãi: Chủ sở hữu trái phiếu phải đăng ký với công ty để nhận các khoản thanh toán, công ty được yêu cầu báo cáo cho cơ quan thuế về tên của người nhân thu nhập tiền lãi.
Những điều kiện ràng buộc: Với những người đầu tư cổ phiếu, họ sẽ được nhận sự bảo vệ quyền lợi từ ban giám đốc, nhưng với người đầu tư trái phiếu, họ không thể trông cậy vào sự bảo vệ từ các giám đốc công ty, nên họ phải áp dụng những quy tắc và những quy định mang tính khống chế lên các giám đốc nhằm bảo vệ lợi ích của người nắm giữ trái phiếu. Những điều kiện này thường giới hạn khối lượng cổ tức mà công ty có thể trả cho cổ đông và khả năng các công ty phát hành thêm các công cụ nợ, việc tham gia vào các vụ sáp nhập cũng bị hạn chế. Các điều kiện ràng buộc được đưa vào trong khế ước của trái phiếu.
Điều khoản mua lại: Đa số các khế ước trái phiếu đều chứa đựng một điều khoản mua lại, theo đó người phát hành có quyền buộc người nắm giữ trái phiếu phải bán lại trái phiếu. Điều khoản mua lại thường quy định một khoảng thời gian từ khi trái phiếu được phát hành lần đầu cho tới khi nó có thể được mua lại. Mức giá trả cho người nắm giữ trái phiếu khi bán lại trái phiếu thường được ấn định từng mệnh giá hoặc cao hơn chút ít (thường bằng chi phí lãi suất một năm). Vì những người nắm giữ trái phiếu nói chung không thích điều khoản mua lại nên những trái phiếu có thể mua lại phải có lợi suất cao hơn những trái phiếu tương đương nhưng không bị mua lại.
Chuyển đổi: một số trái phiếu có thể được chuyển đổi thành cổ phần của cổ phiếu phổ thông. Đặc tính này cho phép những người nắm giữ trái phiếu được chia sẽ những cơ may của công ty nếu giá cổ phiếu tăng lên. Người có trái phiếu thường ưa thích đặc tính có thể chuyển đổi, nó giống với việc chỉ mua một trái phiếu mà lại nhân được một trái phiếu và cả một quyền chọn mua cổ phiếu, do đó, giá của những trái phiếu chuyển đổi sẽ cao hơn giá của những trái phiếu tương đương không có khả năng chuyển đổi. Mức giá cao hơn mà công ty nhận được cho trái phiếu hàm nghĩa là lãi suất thấp hơn.
Các loại trái phiếu công ty
Có nhiều loại trái phiếu công ty, chúng được phân biệt theo loại tài sản thế chấp đảm bảo cho trái phiếu và theo trật tự mà theo đó trái phiếu được hoàn trả khi công ty vỡ nợ. Một số loại trái phiếu: trái phiếu có bảo đảm, chứng chỉ tín thác thiết bị, trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu rủi ro cao (junk-bonds), trái phiếu có lãi suất cuống phiếu thấp hoặc không trả lãi định kỳ.
Bán trái phiếu công ty
Những trái phiếu công ty mới có thể được chào bán ra công chúng trên thị trường mở tới tất cả những người mua quan tâm (public sale) hoặc bán riêng lẻ tới một số lượng hạn chế các nhà đầu tư (private placement)
Cách thức chào bán ra công chúng thường được áp dụng với những công ty lớn. Đối với những công ty nhỏ hơn hoặc những hãng có nhu cầu tài trợ đặc biệt thì người ta thường sử dụng cách thứ hai.
Lưu ý khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp
Không cần lo đến biến động lãi suất ngân hàng vì kỳ vọng hưởng lợi suất đầu tư của trái phiếu cao hơn hẳn lãi suất tiệm kiệm thông thường cùng kỳ hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Để câu khách, lãi suất của trái phiếu được đẩy cao hơn mặt bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm cùng kỳ hạn từ 2 - 3%/năm, thậm chí cao hơn. Tất nhiên, các định chế tài chính này có sự "hợp tác" với doanh nghiệp phát hành từ trước.
Không chỉ mời chào người mua bằng lãi suất cao, một số định chế tài chính trên còn liên kết với ngân hàng đứng ra cam kết mua lại trái phiếu khi nhà đầu tư muốn chuyển nhượng, nên càng hút nhà đầu tư tham gia.
Để tránh những rủi ro không đáng có khi đầu tư trái phiếu, ban nên lưu ý những điều sau đây:
Lựa chọn Trái phiếu của doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, nên đầu tư đa dạng các danh mục để tối đa hóa lợi nhuận, ưu tiên những ngành nghề đang phát triển tốt, mạnh, bền vững trên thị trường (thực phẩm sạch, công nghệ thông tin,...)
Người sở hữu Trái phiếu có thể được: mua - bán, cho tặng, thừa kế...và các quyền khác theo quy định của pháp luật, được cung cấp bản công bố thông tin phát hành và các hồ sơ liên quan.
Tuy nhiên, cũng có những rủi ro từ trái phiếu doanh nghiệp cần lưu ý
Theo Investopedia - Trái phiếu là một công cụ tuyệt vời để tạo ra thu nhập và được nhiều nhà đầu tư coi là sự đầu tư an toàn, đặc biệt là khi so sánh với cổ phiếu. Tuy nhiên, có một số rủi ro tiềm ẩn mà các nhà đầu tư cần biết khi nắm giữ trái phiếu của doanh nghiệp hoặc trái phiếu chính phủ.
Rủi ro lãi suất
Lãi suất và giá trái phiếu có mối quan hệ nghịch đảo: khi lãi suất giảm, giá trái phiếu trên thị trường nhìn chung sẽ tăng lên. Ngược lại, khi lãi suất tăng, giá trái phiếu có xu hướng giảm. Điều này xảy ra bởi khi lãi suất giảm, các nhà đầu tư cố gắng nắm bắt hoặc "khóa" lợi suất cao nhất trong thời gian lâu nhất có thể. Để làm được điều này, họ sẽ thu lời trước từ trái phiếu hiện hành trả lãi suất cao hơn so với giá thị trường bấy giờ. Sự gia tăng nhu cầu dẫn đến việc tăng giá trái phiếu. Trái lại, nếu mức lãi suất hiện hành đang tăng lên, các nhà đầu tư đương nhiên sẽ từ bỏ những trái phiếu trả lãi suất thấp. Điều này sẽ làm cho giá trái phiếu giảm xuống.
Chúng ta hãy xem xét một ví dụ:
Ví dụ - Lãi suất và giá trái phiếu: Một nhà đầu tư sở hữu một trái phiếu được giao dịch ở mệnh giá và có lợi tức là 4%. Giả sử rằng lãi suất thị trường hiện hành tăng lên 5%. Điều gì sẽ xảy ra? Các nhà đầu tư sẽ muốn bán trái phiếu lợi suất 4% để mua vào trái phiếu với lợi tức 5%, và điều này sẽ khiến cho giá trái phiếu với lợi suất 4% thấp hơn mệnh giá.
Rủi ro tái đầu tư
Một rủi ro khác mà các nhà đầu tư trái phiếu phải đối mặt là rủi ro tái đầu tư - nguy cơ phải tái đầu tư tiền thu được ở mức lợi suất thấp hơn lợi suất của các khoản tiền kiếm được trước đây. Một trong những nguyên nhân chính khiến rủi ro này phát sinh là khi lãi suất giảm theo thời gian và trái phiếu có thể thu hồi (callable bond) được các tổ chức phát hành mua lại.
Đặc tính có thể thu hồi được cho phép tổ chức phát hành mua lại trái phiếu trước ngày đáo hạn. Kết quả là, người sở hữu trái phiếu nhận được khoản thanh toán gốc có giá trị cao hơn một chút so với mệnh giá.
Tuy nhiên, mặt trái của một trái phiếu có thể thu hồi đó là nhà đầu tư nhận được tiền nhưng không thể tái đầu tư ở mức lợi suất tương đương. Rủi ro tái đầu tư có thể tác động xấu đến lợi nhuận đầu tư của một cá nhân về lâu về dài.
Để bù đắp rủi ro này, các nhà đầu tư sẽ nhận được lợi suất trái phiếu cao hơn khi mua những trái phiếu không có đặc tính thu hồi lại. Các nhà đầu tư trái phiếu chủ động có thể cố gắng giảm thiểu rủi ro tái đầu tư bằng cách mua những trái phiếu có ngày thu hồi (nhiều khả năng xảy ra) rơi vào những thời điểm khác nhau. Điều này giúp hạn chế khả năng nhiều trái phiếu bị thu hồi cùng một lúc.
Rủi ro lạm phát
Khi một nhà đầu tư mua trái phiếu, về bản chất họ chắc chắn nhận được một mức lợi suất (cố định hoặc biến đổi) trong thời hạn của trái phiếu, hoặc ít nhất trong thời gian nắm giữ.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chi phí sinh hoạt và lạm phát gia tăng đáng kể, và tốc độ này nhanh hơn so với tốc độ của lợi suất đầu tư? Khi điều này xảy ra, sức mua của nhà đầu tư sẽ giảm và thậm chí có thể thu về mức lợi suất âm.
Nói cách khác, giả sử một nhà đầu tư kiếm được mức lợi suất 3% khi đầu tư trái phiếu, nếu lạm phát tăng lên đến 4% sau khi họ mua trái phiếu, thì lợi suất thực sự của nhà đầu tư (vì sức mua giảm) chỉ còn là -1%.
Rủi ro tín dụng/Rủi ro vỡ nợ
Khi mua trái phiếu, cái mà nhà đầu tư đang thực sự mua là một tờ giấy chứng nhận nợ. Hiểu một cách đơn giản, công ty phát hành trái phiếu phải hoàn trả nợ gốc cùng lãi suất theo thời gian. Nhiều nhà đầu tư không nhận ra rằng trái phiếu doanh nghiệp không được bảo đảm vô điều kiện bởi tín dụng của chính phủ mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán nợ của công ty.
Nhà đầu tư phải xem xét khả năng vỡ nợ của công ty phát hành và tính đến rủi ro này khi quyết định đầu tư. Để phân tích khả năng vỡ nợ, một số nhà phân tích và nhà đầu tư sẽ tính toán tỷ số khả năng thanh toán lãi vay (coverage ratio) trước khi bắt đầu đầu tư. Họ sẽ phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ của công ty, xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền, và sau đó so con số này với chi phí lãi vay. Theo lý thuyết, tỷ số khả năng thanh toán lãi vay (hoặc thu nhập từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền) trên chi phí lãi vay càng lớn thì càng an toàn.
Rủi ro xếp hạng
Khả năng kinh doanh và thanh toán nợ doanh nghiệp ở Mỹ (và nợ cá nhân) được đánh giá bởi các tổ chức xếp hạng lớn như Standard & Poor hay Moody's. Các mức xếp hạng từ 'AAA' cho các khoản đầu tư chất lượng cao đến 'D' cho trái phiếu đã vỡ nợ. Những quyết định và đánh giá được thông qua bởi các cơ quan này có tiếng nói lớn đối với các nhà đầu tư.
Nếu một công ty bị xếp hạng tín dụng thấp hoặc khả năng kinh doanh và trả nợ của nó bị đặt dấu chấm hỏi, ngân hàng và các tổ chức cho vay sẽ chú ý và có thể tính lãi suất cao hơn cho các khoản vay sau này của công ty. Điều này có thể có tác động xấu đến khả năng đáp ứng các khoản nợ với các trái chủ hiện tại của công ty và gây tổn thất cho các trái chủ muốn bán trái phiếu đi.
Rủi ro thanh khoản
Luôn có một thị trường sẵn sàng giao dịch trái phiếu chính phủ, nhưng trái phiếu doanh nghiệp thì lại hoàn toàn khác. Có một loại rủi ro đó là nhà đầu tư có thể không bán được trái phiếu doanh nghiệp của mình một cách nhanh chóng do thị trường của trái phiếu đó quá nhỏ với chỉ vài người mua và bán.
Lãi suất thấp trong một đợt phát hành trái phiếu có thể dẫn đến biến động giá đáng kể và có tác động xấu đến tổng lợi nhuận của trái chủ (khi bán). Cũng giống như cổ phiếu được giao dịch trong một thị trường thưa thớt, bạn có thể buộc phải bán trái phiếu với một mức giá thấp hơn nhiều so với dự kiến.
Nam Anh (T/h)
Theo doisongphapluat.com
Thị trường tài chính rủi ro khó lường Hệ thống tài chính được sự hỗ trợ tích cực từ sự phát triển của kinh tế toàn cầu và sự hồi phục của thị trường vốn. Tuy nhiên, hệ thống tài chính Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro khó lường. ĐTTC ghi ý kiến của ông VŨ BẰNG, nguyên Chủ tịch UBCKNN, thành viên Tổ tư vấn kinh...