Sự trở lại của sói xám bên bờ vực tuyệt chủng
Sói xám Mexico gần như tuyệt chủng khoảng 50 năm trước đã trở lại với tổng số 42 bầy ở Arizona và New Mexico, Mỹ.
Sau khi đạt đến điểm gần tuyệt chủng, quần thể sói xám Mexico ở Mỹ đã bắt đầu trở lại với số lượng tăng 24% vào năm 2019. Theo thông tin điều từ Cơ quan Cá và Động vật hoang dã Mỹ, số lượng sói xám Mexico nước này đã tăng lên 163 vào năm 2019 từ mức 131 vào năm 2018.
Sự gia tăng này là kết quả của việc ra đời thành công 90 con trong năm. Trong đó, 52 con sống sót. Những con sói hiện bị giới hạn ở phía tây nam nước Mỹ. 87 con sống ở New Mexico và 76 con tại Arizona.
Ảnh: Albuquerque Journal.
“Kết quả cho thấy nhiều cặp sinh sản hơn và sói con được sinh ra trong tự nhiên nhiều hơn bao giờ hết. Đây là năm thứ 2 chúng tôi chứng kiến sự gia tăng đáng kể dân số sói hoang Mexico. Thành công này nhờ vào nỗ lực quản lý và cơ sở khoa học từ nhóm nghiên cứu liên ngành”, Amy Lueders đến từ Cơ quan Cá và Động vật hoang dã Mỹ cho biết.
42 bầy sói xám Mexico hiện sống ở nước này. Số lượng nhiều hơn 11 bầy so với năm trước. Trong đó, 10 con sói đơn độc dường như không thuộc bầy nào. “Sự gia tăng cho thấy việc cảnh giác và thông minh của sói để tránh con người. Đó là một phần quan trọng giúp chúng sống sót. Các quan chức liên bang cần có hành động mạnh mẽ hơn để thiết lập sự đa dạng di truyền lành mạnh”, Michael Robinson thuộc Trung tâm Đa dạng Sinh học cho biết.
Ảnh: Chicago Zoological Society.
Cơ quan Cá và Động vật hoang dã đã nuôi những con sói và thả vào tự nhiên với hy vọng chúng sẽ được nhận vào bầy. Các nhà nghiên cứu hy vọng phương pháp này sẽ làm giảm cận huyết giữa số lượng nhỏ sói sống trong tự nhiên, tăng đa dạng di truyền loài và tạo cơ hội tốt để sống sót lâu dài. Họ đã theo đuổi chiến lược này từ năm 2016, thả 30 con sói vào môi trường hoang dã. Trong đó, 7 con được cho là sống sót.
Video đang HOT
Sói xám Mexico là phân loài hiếm nhất của sói xám Bắc Mỹ. Chúng được cho đã bị tiêu diệt hoàn toàn khỏi tự nhiên vào giữa những năm 1970. Năm 1973, sói xám được liệt kê vào loài có nguy cơ tuyệt chủng. Năm 1977, một nỗ lực chung với chính phủ Mexico để cứu loài này bắt đầu, tập trung nhân giống một vài con sói còn lại. Năm 1998, lần đầu tiên 11 con sói từ chương trình đó được đưa vào tự nhiên.
Đối với các nhà nghiên cứu, các con số là dấu hiệu cho thấy chương trình đã đạt được tiến độ chậm nhưng ổn định. Kết quả của cuộc điều tra rất quan trọng vì chúng phản ánh những tiến bộ đạt được trong quá trình phục hồi số lượng sói xám Mexico ở Mỹ.
Rhizodus hibberti: Quái vật kinh hoàng của kỷ Carbon
Rhizodus hibberti là loài cá cổ đại khổng lồ có thể thách thức trí tưởng tượng với sự hung dữ của chúng.
Khi nói đến Thời kỳ Carbon, mọi người sẽ nghĩ tới ngay đó là thời đại của những loài côn trùng khổng lồ như những loài động vật chân đốt dài hàng mét, những con chuồn chuồn to lớn như những loài chim, nhưng trên thực tế, "kẻ giết người" khủng khiếp nhất của kỷ Carbon lại không phải là sinh vật sống trên đất liền hay bầu trời, bởi vì đơn giản chúng là những loài cá săn mồi khổng lồ ấn nấp dưới đáy sông hồ.
Một trong số đó là loài cá nổi tiếng hung dữ - Rhizodus hibberti.
Những cư dân nước ngọt khổng lồ này là những kẻ săn mồi nước ngọt lớn nhất từng được biết đến. Trong khi nhiều loài cá khổng lồ hiện đại là những người khổng lồ hiền lành như cá mập khổng lồ và cá đuối, thì những con Rhizodont khổng lồ này lại rất bạo lực trong hành vi của chúng. Thức ăn chủ yếu của những con Rhizodont này là các loài cá lớn và động vật lưỡng cư khổng lồ thời tiền sử.
Vào đầu thế kỷ 19 - đó là thời kỳ quan trọng đối với cổ sinh vật học. Cuvier và Irvine cùng với những nhà tiên phong trong lĩnh vực cổ sinh vật học khác đã kiểm tra các hóa thạch mà họ tìm kiếm được bằng chính những kiến thức của mình và đặt tên cho hàng loạt các loài sinh vật cổ đại như Thằn lằn sông Meuse, Dức long, Megatherium...
Ở Scotland , người ta đã tìm thấy một số mẫu hóa thạch răng, một số trong đó thậm chí dài tới hơn 20 cm. Thời điểm đó họ vẫn chưa thể xác định được chiếc răng siêu dài đó thuộc về loài sinh vật cổ đại nào.
Nhưng ngay sau khi Irvine xem xét và tìm hiểu mẫu hóa thạch răng đó, ông đã xác định rằng những chiếc răng hóa thạch này thuộc về một con cá thời tiền sử, vì vậy ông đã đặt tên cho nó là Rhizodus với tên khoa học đầy đủ là Rhizodus hibberti.
Mấu hóa thạch răng của cad Rhizodus hibberti.
Qua nhiều phân tích và tìm hiểu, các nhà cổ sinh vật học cũng có thể xác định được chính xác kích thước của chúng, cá Rhizodus hibberti có kích thước rất lớn, cơ thể của chúng có thể dài hơn 7 mét và nặng 2 tấn, lớn hơn loài cá mập trắng khổng lồ vẫn đang sinh sống trên những đại dương của chúng ta ngày nay.
Và rất có có lẽ rằng loài cá Rhizodus hibberti chính là phiên bản của phóng đại của những con cá phổi ngày nay.
Kích thước thực tế khi so sáng với con người.
Rhizodontida (nghĩa là răng rễ) là một bộ cá vây thùy dạng bốn chân sống vào thời kỳ tầng Givet đến thế Pennsylvania tại nhiều nơi trên thế giới - loài cổ nhất được biết tới xuất hiện cách nay khoảng 377 triệu năm (Mya), loài cuối cùng khoảng 310 Mya. Các loài Rhizodontida sống ở các sông nhiệt đới và hồ nước ngọt, chúng là sinh vật ăn thịt chiếm ưu thế vào thời đó. Chúng đạt kích thước lớn - loài lớn nhất được biết tới, Rhizodus hibberti ở châu Âu và Bắc Mỹ, được ước tính dài 7 mét.
Đầu của loài cá này dài khoảng 1 mét, chúng sở hữu đôi mắt to tròn phía trước đỉnh đầu. Đôi mắt này cho phép chúng có một tầm nhìn tuyệt vời để có thể săn đuổi và nhìn thấy những con mồi trong làn nước đục.
Rhizodus hibberti có một cái miệng lớn dưới mắt chứa đầy răng sắc nhọn và cong. Chúng sở hữu những chiếc răng cửa "siêu to khổng lồ" với độ dài có thể lên tới 22cm và trong khoang miệng là vô số những chiếc răng nhỏ và nhọn hơn.
Từ những mẫu răng mà các nhà khảo cổ khai quật được có thể thấy rằng thức ăn chủ yếu của chúng là những loài cá da trơn cổ đại và những loài sinh vật lưỡng cư trong cùng thời kỳ.
Hóa thạch của sinh vật khủng khiếp này được tìm thấy ở châu Âu và Bắc Mỹ, được bảo tồn khi môi trường sông hồ trầm tích. Răng của loài này bao gồm rất những răng nhỏ có kết cấu vô cùng mạnh mẽ và sắc nhọn cùng với đó là nhiều răng cắt. Mỗi chiếc răng được neo chắc chắn trong xương hàm và khi so sánh thì bộ hàm này còn khủng khiếp hơn rất nhiều so với những loài cá mập hiện đại.
Cơ thể của loài cá nước ngọt khổng lồ này khá tròn và đầy, trông khá giống với những quả ngư lôi được bao phủ bởi những vẩy cứng khắp toàn cơ thể.
Ngoài ra chúng còn sở hữu một cặp vây ngực cũng như 1 cặp vây bụng và vây để bảo vệ vùng hậu môn, chúng sở hữu chiếc đuôi tương tự như những loài cá phổi ngày nay. Hình dạng và cơ thể được sắp xếp hợp lý cùng với vây đuôi mạnh mẽ có thể cung cấp cho chúng tốc độ rất lớn trong môi trường nước ở kỷ Carbon.
Cá Rhizodus hibberti sống trong thời kỳ Carboniferous - Kỷ Carbon - khi trái đất được gọi là kỷ nguyên của côn trùng. Trong thời kỳ Carbon, Trái Đất được bao phủ bởi một lượng lớn cây xanh và quang hợp thực vật đã cung cấp cho hành tinh của chúng ta một hàm lượng oxy cực lớn (chiếm tới 35%), điều này cũng tạo ra điều kiện cho phép những loài sinh vật khổng lồ xuất hiện.
Nếu như trên mặt đất và trên không là thiên đường của các loài côn trùng thì trong những khu rừng đầm lầy tươi tốt, dưới đáy sông hồ lại là vương quốc được cai quản bởi sự thống trị của loài cá Rhizodus hibberti.
Lẩn khuất trong vùng nước ngọt đục là loài cá Rhizodus hibberti, chúng tấn công tất cả các loài động vật xuất hiện trong tầm nhìn của chúng, cho dù đó là cá hay động vật lưỡng cư. Cuộc tấn công của Heath Rootfish rất dữ dội và đẫm máu. Chúng sẽ vồ lấy con mồi bằng những chiếc răng cửa to dài và sắc nhọn rồi nuốt con mồi vào bụng.
Đặc điểm của Rhizodus hibberti là vây có phần vây thịt và xương hỗ trợ bên trong, chúng rất lớn và mạnh mẽ, nhưng số phận của loài cá này cũng không thể thoát khỏi sự tuyệt chủng của kỷ Carbon. Mặc dù đã tuyệt chủng, nhưng Heath Rootfish vẫn là một trong những loài cá ăn thịt lớn nhất từng sống ở vùng nước ngọt trên Trái Đất.
Theo trí thức trẻ
Sốc với sức tàn phá kinh hoàng của tiểu hành tinh khi va vào Trái đất Một tiểu hành tinh khổng lồ có thể đã va vào Trái đất 12.800 năm trước gây ra sự biến đổi khí hậu toàn cầu, theo bằng chứng mới được tìm thấy ở Nam Phi. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Witwatersrand (Johannesburg, Nam Phi) đã phân tích một mẫu đất cổ tại địa điểm có tên Wonderkrater ở Nam Phi và...