Sự “ngoa ngôn” của báo chí và quan chức Trung Quốc
Trang mạng “Tiền Thiêm” (Tầm nhìn, qianzhan.com) Trung Quốc ngày 5/7 có bài viết tiếp tục luận điệu xuyên tạc, vu cáo thường thấy của truyền thông Trung Quốc, cho rằng Philippines và Việt Nam trước sau “gây phiền phức” cho Trung Quốc ở Biển Đông.
Trang mạng “Tiền Thiêm” (Tầm nhìn, qianzhan.com) Trung Quốc ngày 5/7 có bài viết tiếp tục luận điệu xuyên tạc, vu cáo thường thấy của truyền thông Trung Quốc, cho rằng Philippines và Việt Nam trước sau “gây phiền phức” cho Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung tướng Vương Quán Trung, Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 13.
Bài báo này đã dùng nhiều từ ngữ kiểu “đầu đường xó chợ” như “cướp, giở mọi thủ đoạn, gây sự cố, quấy rối cường độ mạnh, ý đồ nham hiểm, để ngoài tai, ngày càng táo tợn” để vu vạ Việt Nam.
Bài báo cho rằng, “Việt Nam như người chạy tiếp sức với Philippines để “gây hấn” với Trung Quốc, Việt Nam “đi con đường cũ” của Philippines, nhưng Việt Nam “cứng” hơn Philippines, quyết tâm “đối đầu” cũng kiên quyết hơn. Bài báo vu vạ nực cười rằng, “trong quá trình đối phó với Việt Nam, Trung Quốc đã khó thoát được hoàn cảnh khó xử “nước lớn bị nước nhỏ bắt cóc”, rằng bất cứ Trung Quốc làm gì ở Biển Đông hay Việt Nam chủ động “khiêu khích, gây sự”, dư luận quốc tế đều đứng về phía Việt Nam.
Bài báo thừa nhận một lý do để Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông, rằng “nếu Trung Quốc không cứng rắn trong vấn đề chủ quyền”, thì sẽ không thể làm dịu thái độ bất mãn ở trong nước. Trung Quốc và Việt Nam tiếp tục tiến hành “khẩu chiến”, “vòi rồng chiến” chỉ có thể là “kế tạm thời thích nghi”.
Bài báo gắp lửa bỏ tay người cho rằng, giữa Trung-Việt có thể bùng phát chiến tranh quy mô lớn thực sự ở Biển Đông bất cứ lúc nào. Cuộc chiến giữa Trung-Việt ở Biển Đông có thực sự phải dùng vũ lực hoàn toàn tùy thuộc vào sự lựa chọn của Việt Nam. Trung Quốc tuy “quyết tâm, kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng Trung Quốc sẽ không nổ phát súng đầu tiên”. Bài báo cho rằng, nếu Việt Nam dám nổ phát súng đầu tiên thì Trung Quốc và Việt Nam sẽ lại nổ ra chiến tranh trên biển. Đây thực sự là một ý đồ thâm hiểm vì bài báo đẩy quả bóng về phía Việt Nam, cho rằng cuộc chiến nếu có nổ ra hay không là do Việt Nam.
Bài viết “China’s “new” language of diplomacy” đăng trên Asia Sentinel phân tích ngọn ngành, gốc rễ của phong cách phát ngôn khiếm nhã, bất lịch sự, thậm chí thô lỗ có tính hệ thống của các quan chức chính trị, ngoại giao, báo chí Trung Quốc trong thời gian gần đây.
Bài báo của Asia Sentinel viết: Một tính cách đặc trưng đáng chú ý của giới quan chức Trung Quốc trong các hội nghị quốc tế là họ hay dùng ngôn ngữ khiếm nhã, thậm chí lỗ mãng một cách bất bình thường. Đây là thứ ngôn ngữ hoàn toàn không giúp được cho Trung Quốc trong nỗ lực được công nhận là một thành viên văn minh của cộng đồng ngoại giao quốc tế.
Video đang HOT
Những cử chỉ lễ phép, những ngôn từ tôn trọng người khác dường như biến mất trong các bài diễn văn của các quan chức Trung Quốc trên diễn đàn quốc tế. Đối với Việt Nam, những ngôn từ được các quan chức Trung Quốc đưa ra rất kẻ cả, bề trên và hỗn xược. Mới đây thôi, sau chuyến viếng thăm Việt Nam, ông Dương Khiết Trì – Ủy viên Quốc vụ viện với thâm niên lâu năm làm chính sách đối ngoại, đã tuyên bố với báo chí rằng mục tiêu của ông ta đến Việt Nam “đơn giản chỉ là trách mắng đồng nhiệm người Việt Nam”.
Một bộ phận không nhỏ báo chí Trung Quốc cũng vào hùa với các quan chức sử dụng ngôn từ khó nghe khi đề cập vấn đề Hoàng Sa. Cụm từ phản ứng phổ biến nhất là “Sự cố/phát biểu này đã can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Trung Quốc, làm tổn thương nghiêm trọng đến cảm xúc của người dân Trung Quốc và hủy hoại mối quan hệ song phương cơ bản”.
Fang Kecheng, một blogger người TQ và là thạc sĩ báo chí trường Đại học Bắc Kinh, từng đếm được ít nhất là 140 lần phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát biểu một cách chính thức rằng người Trung Quốc “đang cảm thấy bị tổn thương” bởi ít nhất 42 quốc gia, kể cả những quốc gia rất khó hiểu như Iceland và Guatemala.
Victor Mair, một nhà ngôn ngữ học viết trên The Language Log tại Đại học Pennsylvania (Mỹ), đã quyết định kiểm tra xem các quan chức Trung Quốc thường xuyên dùng cụm từ “làm tổn thương cảm xúc của người dân Trung Quốc” như thế nào trên Google. Theo Mair, các quan chức Trung Quốc đã nêu lên rằng nước này bị tổn thương tổng cộng 17.000 lần cho đến năm 2011. Các quốc gia làm tổn thương Trung Quốc đứng đầu là Nhật với 178 lần, kế đến là Mỹ với 5 lần.
Miệng nói thường xuyên “bị tổn thương”, nhưng ngược lại, Trung Quốc đã sử dụng ngôn ngữ cứng rắn đối với hàng loạt quốc gia xung quanh, trong đó có Việt Nam, và cụm từ “bị tổn thương” hoàn toàn không hề có trong các bài phát biểu.
Cách hành xử khiếm nhã của các quan chức Trung Quốc ngày nay đang gia tăng và trở nên thông dụng trên các diễn đàn chính trị và ngoại giao thế giới. Mới tháng trước, tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, cả thế giới chứng kiến màn phát ngôn thiếu nhân cách phát ra từ miệng của một vị tướng Trung Quốc để đáp trả lời bình luận của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe.
Thực tế, ngôn từ bất lịch sự trong ngoại giao của Trung Quốc cũng không có gì mới. Nhiều tài liệu cho thấy từ thế kỷ thứ 15, các hoàng đế Trung Hoa đã sử dụng loại ngôn ngữ xấc xược như một công cụ để đe dọa các nước láng giềng. Một trong những cụm từ các hoàng đế Trung Hoa thích dùng là “Trung Quốc là một nước lớn” và cụm từ này đến nay vẫn đang được ưa thích.
Theo Nguyễn Chiến
Chinhphu.vn
Những dấu mốc trong cuộc đời tướng Giáp
Năm 14 tuổi bắt đầu hoạt động cách mạng, đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành một trong những nhà chiến lược quân sự tài ba nhất lịch sử Việt Nam.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, quê ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, những bước ngoặt trọng đại trong lịch sử dân tộc. Xin điểm lại những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp lẫy lừng của Đại tướng.
Năm 1925, 14 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng. Năm 1929, ông tham gia cải tổ Tân Việt Cách Mạng Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa phủ (Huế) vì tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp.
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, ông được thả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội.
Ông hoạt động đấu tranh cách mạng trên mặt trận văn hóa, viết bài cho những tờ báo công khai hồi đó như Tin Tức, Nhân Dân, Tiếng nói của chúng ta, Lao động; làm biên tập viên cho các báo của Đảng; dạy Sử - Địa ở trường tư thục Thăng Long.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911. Năm 37 tuổi, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao quân hàm Đại tướng.
Năm 1935, ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, bạn học tại trường Quốc học Huế, một Đảng viên Cộng sản, em ruột nhà cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai. Sau khi kết hôn tại Vinh, hai người trở ra Hà Nội, ngụ tại một ngôi nhà ở phố Đường Thành, sau chuyển sang phố Nam Ngư. Năm 1942, bà bị đày đi nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), qua đời năm 1944.
Năm 1940, với bí danh là Dương Hoài Nam, ông cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 5 năm 1941, trở về Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông cùng các cán bộ cao cấp khác xây dựng cơ sở cách mạng, lập ra Mặt trận Việt Minh, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Năm 1942, ông phụ trách ban "Xung phong Nam tiến". Tháng 12/1944, ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trao nhiệm vụ thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Ngày 22/12/1944, tại một khu rừng ở Châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ủy nhiệm ông đứng ra tuyên bố thành lập đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay).
Cuối tháng 3/1945, ông đưa đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân tiến xuống phía Nam, hội quân với đội Cứu Quốc quân của Chu Văn Tấn ở vùng chợ Chu, Thái Nguyên để thống nhất tổ chức thành Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tháng 8/1945, ông được cử làm Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, làm tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải Phóng Quân và Ủy viên Ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng Việt Bắc.
Năm 1946, ông lập gia đình với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng cùng Trung đoàn trưởng Thái Dũng (ngồi bên trái) nghiên cứu sơ đồ tác chiến chiến dịch biên giới.
Ngày 19/12/1946, chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản, ông bắt đầu lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) với cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Ngày 25/1/1948, ông được phong Đại tướng. Tháng 6/1950, theo Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng chấn chỉnh tổ chức thành Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, ông giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, Tổng Chính ủy Bí thư Quân ủy Trung ương. Ông liên tục đảm nhiệm những chức vụ trên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975).
Trong 21 năm (1954-1975) của cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam, tham gia xây dựng chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động của Quân đội Nhân dân trong chiến tranh.
Trong một thời gian ngắn t ừ tháng 7/1960 đến tháng 1/1963, ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.
Năm 1991, Đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80.
Con người và sự nghiệp của ông không chỉ tỏa sáng rực rỡ trên lĩnh vực quân sự mà còn trên mặt trận văn hóa-tư tưởng và một số lĩnh vực khác. Ông viết hàng trăm bài báo; gần 100 bản luận văn có giá trị trên nhiều lĩnh vực; đặc biệt, ông viết nhiều sách văn học.
Dương Tùng (Tham khảo tư liệu: quangbinh.gov.vn) (Khampha.vn)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cuộc chiến Những bức ảnh trong cuốn sách ảnh "Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp" xuất bản nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng phần nào phác họa chân dung nhà chỉ huy quân sự tài ba lãnh đạo nhiều chiến dịch lớn giải phóng dân tộc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, Cục trưởng...