“Sóng” đầu tư công phớt lờ chất lượng tài chính doanh nghiệp
Kỳ vọng giải ngân đầu tư công được thúc đẩy trong năm nay đã giúp hàng loạt cổ phiếu liên quan thu hút dòng tiền mạnh mẽ, bất chấp “ sức khỏe” của các doanh nghiệp này.
Nhiều cổ phiếu tăng vượt thị trường
Thủ tướng Chính phủ đã phát đi thông điệp rõ ràng về việc đẩy mạnh hoạt động đầu tư công trong năm 2020 nhằm tạo cú huých kéo các thành phần kinh tế quay trở lại đà tăng trưởng.
Tổng quy mô vốn đầu tư công theo kế hoạch được giải ngân trong năm nay lên tới 700.000 tỷ đồng – một con số rất lớn.
Quý đầu năm nay, theo ước tính của SSI Research, giải ngân đầu tư công đạt 61.600 tỷ đồng, tăng trưởng 31,8% so với cùng kỳ 2019, hoàn thành 13,1% kế hoạch giải ngân trong năm.
Giới đầu tư đang kỳ vọng, với định hướng của Chính phủ, giải ngân đầu tư công tiếp tục tăng tốc trong các quý tiếp theo sau nhiều năm trong tình trạng “ứ đọng” và điều này sẽ giúp nhiều doanh nghiệp ngành xây dựng, vật liệu xây dựng được hưởng lợi.
Nhờ kỳ vọng này, nhiều cổ phiếu ngành xây dựng, vật liệu xây dựng đã bật tăng mạnh. Chẳng hạn, cổ phiếu C4G đã tăng 86,6% so với đầu tháng 4, lên mức 7.000 đồng/cổ phiếu (phiên 13/5). Cổ phiếu BCC tăng 44,8%, lên mức 7.400 đồng/cổ phiếu; cổ phiếu HT1 tăng 37,4% lên mức 13.600 đồng/cổ phiếu và cổ phiếu CII tăng 12,2% lên mức 19.750 đồng/cổ phiếu, trong khi cùng thời gian, chỉ số VN-Index chỉ tăng 24,8%.
Đáng nói là dòng tiền đầu tư chảy mạnh vào nhiều cổ phiếu mà phớt lờ những vấn đề nội tại của doanh nghiệp cũng như việc doanh nghiệp đó liệu có thực sự tận dụng được cơ hội từ chính sách thúc đẩy đầu tư công hay không.
Còn đó những nỗi lo
Đặc điểm của các dự án đầu tư công là có độ trễ từ việc xây dựng, nghiệm thu cũng như thanh toán, do liên quan đến nhiều cơ quan, nhiều thủ tục.
Chính vì vậy, với những doanh nghiệp không có lợi thế về tiềm lực tài chính, không trường vốn, sẽ là một thách thức để tham gia phân khúc dự án này.
Xem xét báo cáo tài chính quý I/2020 của nhiều doanh nghiệp trong ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, có thể thấy, tỷ lệ tiền mặt ở mức tương đối thấp, dao động dưới 4% tổng tài sản.
Video đang HOT
Đơn cử, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn (BCC) chỉ có 36,9 tỷ đồng tiền mặt, chiếm 0,8% tổng tài sản của doanh nghiệp. BCC hoạt động trong lĩnh vực cung cấp xi măng, kỳ vọng hưởng lợi từ nhu cầu xây dựng cao của dự án cao tốc Bắc – Nam.
Tuy nhiên, vấn đề của doanh nghiệp là sự mất cân đối tài chính. Tính tới thời điểm 31/3/2020, dư nợ vay ngắn và dài hạn của BCC lên tới 1.358,7 tỷ đồng, chiếm 29% tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Vay nợ lớn, áp lực chi phí lãi vay của Công ty rất cao.
Năm 2018, Công ty phải trả lãi vay gần 90 tỷ đồng, năm 2019, số lãi vay phải trả lên tới 111,1 tỷ đồng. Ngoài ra, giá trị khấu hao tài sản lớn, lên tới 262,6 tỷ đồng vào năm 2019. Doanh nghiệp hiện chỉ có 36,9 tỷ đồng tiền mặt, chiếm 0,8% tổng tài sản.
Hiện tại, BCC đang dùng nguồn vốn ngắn hạn lên tới 2.648,5 tỷ đồng, trong khi tài sản ngắn hạn là 851,4 tỷ đồng. Như vậy, doanh nghiệp đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ thêm cho tài sản dài hạn.
Sự mất cân đối này sẽ trầm trọng hơn nếu như doanh nghiệp gặp vấn đề về dòng tiền hoạt động kinh doanh như bị chiếm dụng vốn kéo dài.
Tương tự, CTCP Xi măng Hà Tiên 1 (HT1) cũng có dấu hiệu mất cân đối tài chính. Doanh nghiệp hiện có tổng nguồn vốn 9.752 tỷ đồng; trong đó, nợ ngắn hạn là 3.478 tỷ đồng (vay nợ ngắn hạn 2.249,7 tỷ đồng), tài sản ngắn hạn là 1.669,8 tỷ đồng.
HT1 cũng đang dùng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn. Dù vậy, HT1 có sự cải thiện về số dư tiền mặt so với BCC. Tính tới 31/3/2020, Công ty có 302,2 tỷ đồng tiền mặt, chiếm 3,1% tổng tài sản.
Gánh nặng nợ vay cũng đang đè nặng CTCP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP.HCM (CII). Tính tới 31/3/2020, Công ty có tổng nợ vay lên tới 15.529,7 tỷ đồng, chiếm 84,2% tổng nguồn vốn. Trong đó, áp lực trả nợ vay của doanh nghiệp trong vòng 1 năm tới là 1.802 tỷ đồng, năm thứ 2 là 733,8 tỷ đồng, trong năm 3 đến năm 4 là 3.076,7 tỷ đồng…
Công ty hiện đang có 2.676,2 tỷ đồng tiền mặt, nhưng lượng tiền này được hình thành chủ yếu nhờ việc tăng vay nợ. Dòng tiền hoạt động kinh doanh chính của Công ty trong quý I/2020 âm tới 365,6 tỷ đồng.
Với CTCP Tập đoàn Cienco4 (CG4), vấn đề nằm ở chỗ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá lớn. Tính tới 31/3/2020, CG4 có tổng khoản phải thu lên tới 2.533,9 tỷ đồng, chiếm 34,5% tổng tài sản. Chi tiết các khoản phải thu không được thuyết minh trong báo cáo quý I.
Lần lại báo cáo tài chính năm 2019 của Công ty, có thể thấy, giá trị khoản phải thu tại 31/12/2019 lên tới 2.446 tỷ đồng.
Trong đó, khoản phải thu của khách hàng là 760,7 tỷ đồng; phải thu các bên liên quan 121,9 tỷ đồng; trả trước cho người bán 258,2 tỷ đồng; trả trước cho người bán bên liên quan 100 tỷ đồng; phải thu về cho vay ngắn hạn 1.127,7 tỷ đồng; phải thu về cho vay bên liên quan 816,7 tỷ đồng và phải thu khác 300,2 tỷ đồng.
Nợ ngắn hạn và tài sản ngắn hạn tại thời điểm cuối quý I/2020 của C4G lần lượt là 3.240 tỷ đồng và 3.380,2 tỷ đồng, tỷ lệ khá tương đồng. Nhưng nếu doanh nghiệp gặp áp lực dòng tiền do bị chiếm dụng vốn tại các dự án đầu tư công hoặc đối tác trong tương lai, điều này sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh.
Được biết, năm 2018, CG4 đã thông qua phương án trả cổ tức tỷ lệ 17% (trong đó 12% bằng tiền và 5% bằng cổ phiếu); mức cổ tức 2019 dự kiến tối thiểu là 20%, tuy nhiên đến nay, nhà đầu tư vẫn chưa nhận được khoản cổ tức của hai năm này.
Kỳ vọng hưởng lợi từ chính sách đẩy mạnh đầu tư công trong thời gian tới đã đẩy giá cổ phiếu lên quá nhanh trong khi nhiều doanh nghiệp hiện có tình hình tài chính không lành mạnh, áp lực nợ vay cao, bị chiếm dụng vốn lớn và quan trọng lượng tiền của doanh nghiệp không lớn.
Nhà đầu tư cần bình tĩnh hơn trong đánh giá cơ hội khi đặc điểm đầu tư công sẽ trả chậm khi nghiệm thu dự án, việc xoay vòng vốn sẽ bị hạn chế đối với các doanh nghiệp.
Tìm lời giải giúp chống đỡ đòn 'covid kinh tế'
Đây chính là thời điểm cần những quyết sách rất cụ thể có tính bước ngoặt lịch sử đối với Việt Nam hoặc là bứt phá đi lên hoặc là dẫm chân tại chỗ.
Không ai có thể tưởng tượng được nền kinh tế lại có thể đối mặt với những rủi ro ập tới bắt nguồn từ đại dịch Covid 19.
Với độ mở quá cao, xuất nhập khẩu trên 200% GDP, ngay lập tức kinh tế Việt Nam tụt giảm mức tăng trưởng GDP của quý I ước đạt 3,82% - mức tăng trưởng theo quý thấp nhất trong 10 năm vừa qua. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) đạt mức tăng 5,8%- mức tăng thấp trong quý I trong nhiều năm trở lại đây (ngoại trừ năm 2017).
Một chỉ số rất đang lưu tâm đó là CPI bình quân quý I năm 2020 ước tăng 5,56% so với cùng kỳ năm 2019 là mức tăng cao nhất trong 05 năm gần đây CPI bình quân quý I tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Thu ngân sách nhà nước đến thời điểm 15/3/2020 ước tính đạt 311,3 nghìn tỷ đồng, bằng 20,6% dự toán năm. Chi ngân sách nhà nước đến thời điểm 15/3/2020 ước tính đạt 278,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,9% dự toán năm. Đến thời điểm hiện tại các gói giãn, hoàn nộp thuế, chi hỗ trợ người lao động mất việc chưa chi trả nên cán cân ngân sách quý I vẫn diễn biến tích cực.
Ngân hàng nhà nước đã cắt giảm mạnh lãi suất điều hành giảm hỗ trợ nền kinh tế trước tác động của dịch bệnh. Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm. Lãi suất tái chiết khấu từ 4,0%/năm xuống 3,5%/năm.... Hệ thống ngân hàng đã giảm lãi suất huy động trong nền kinh tế từ 0,5-1%/năm ở các kỳ hạn, lãi suất cho vay mới các ngân hàng cam kết đưa ra gói 250 ngàn tỷ mức giảm lãi suất cho vay khoảng 2%/năm để hỗ trợ doanh nghiệp.
Thanh khoản cho nền kinh tế cần được đặc biệt quan tâm
Tỷ giá đã biến động hơn so với cùng kỳ năm ngoái, trong 03 tháng giao dịch, tỷ giá trung tâm giữ được đà tăng liên tục với tổng mức tăng là 0,35%, tương đương tăng 80 đồng so với cuối năm 2019.
Còn nhiều thách thức phía trước
Những chỉ số kinh tế vĩ mô trong quý I cho thấy, nền kinh tế ngày càng bộc lộ rõ những yếu huyệt vốn dĩ đã được dồn tích nhiều năm qua cho dù đã nỗ lực tái cấu trúc những chưa cải thiện là bao.
Kinh tế tăng trưởng phụ thuộc nhiều các doanh nghiệp FDI; DNNN mức độ cải thiện chậm, hơn 10 dự án thua lỗ lớn thuộc Bộ Công thương (trước đây) đa phần dẫm chân tại chỗ; chi ngân sách thường xuyên cao, chi cho phát triển giảm và giải ngân chậm, trong khi nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh, chi trả lãi vay của Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn.
Khu vực ngân hàng cung ứng tới trên 70% vốn cho nền kinh tế, chưa kết thúc lộ trình tái cơ cấu theo đề án được phê duyệt tại quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ không may lại chịu tác động mạnh bởi đại dịch Covid 19.
Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước dư nợ tín dụng dự kiến bị ảnh hưởng khoảng 2 triệu tỉ đồng, chiếm khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động ngân hàng.Trong đó, dư nợ bị ảnh hưởng tập trung chủ yếu ở một số ngành, như công nghiệp chế biến, chế tạo (60.000 tỉ đồng); bán buôn bán lẻ (43.000 tỉ đồng); nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (16.000 tỉ đồng). Riêng ở các hoạt động dịch vụ khác (sửa chữa các thiết bị, đồ dùng gia dụng, dịch vụ phục vụ tăng cường sức khỏe...), dư nợ tín dụng bị ảnh hưởng khoảng 260.000 tỉ đồng, chiếm 3,1% tổng dư nợ...
Quý I/2020, có 34,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, bao gồm: 18,6 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 26%), 12,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (giảm 20,6%), 4,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (tương đương với cùng kỳ năm trước), trong đó có gần 3,7 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 1,3%; 62 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 21,6%.
Có thể thấy trong thời gian tới đây nền kinh tế tiếp tục đối mặt với những khó khăn thách thức gia tăng hơn nữa khi mà đại dịch Covid toàn cầu chưa được khống chế nhưng cũng có những cơ hội tốt cho nền kinh tế cải thiện sang trạng thái mới. Trực diện nhất là những vấn đề sau:
Tăng trưởng kinh tế suy giảm sâu hơn trong quý II, III, thậm chí cả năm có thể tăng trưởng rất thấp. WB dự báo Việt Nam tăng trưởng khoảng 2,7%; VERF đưa 3 kịch bán dự báo, trong đó kịch bản xấu nhất có thể tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ âm trong năm 2020.
Trong khi chính sách tài khóa và CSTT nỗ lực có gói kích cầu nền kinh tế thì chỉ số lạm phát bình quân lại gia tăng. Đây sẽ là thách thức đang quan ngại nhất cần thận trọng về liều lượng sử dụng gói tiền bơm mới từ tín dụng ngân hàng.
Đây là giai đoạn có cơ hội vàng để giảm mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay của nền kinh tế, có thể giảm sâu hơn từ 1,5 đến 2%/năm. Tuy nhiên, doanh nghiệp ngưng trệ sản xuất, có thể đứt gãy dòng tiền nên khả năng tăng trưởng tín dụng sẽ ở mức thấp 1 con số.
Trong khi nợ xấu có nguy cơ tăng cao, vì việc cơ cấu lại nợ, ví dụ là 50% của 2 triệu tỷ đồng là nợ ngắn hạn thì cơ cấu lại tối đa cũng chỉ bằng kỳ hạn cho vay trước đây, nghĩa là cho vay 6 tháng chỉ cơ cấu thêm 6 tháng, 12 tháng thì cơ cấu được 12 tháng và đến hết thời hạn cơ cấu lại đương nhiên nợ sẽ nhảy nhóm nợ xấu.
Chỉ số thương mại toàn cầu suy giảm còn 95,5 điểm, cũng đồng nghĩa với xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ rất khó khăn, cán cân thương mại nhiều khả năng sẽ chuyển trạng thái, có thể từ xuất siêu sang nhập siêu. Lúc này, sẽ có tác động mạnh lên tỷ giá giữa VND với USD.
Càng về cuối năm số doanh nghiệp ngưng sản xuất, giải thể, phá sản sẽ tăng cao, nếu đại dịch Covid không được khống chế trên phạm vi toàn cầu ở khoảng tháng 5/2020. Bên cạnh đó kéo theo hàng ngàn lao động mất việc làm, nếu gói cứu trợ người lao động mất việc không được chi kịp thời thì nhiều tệ nạn xã hội sẽ nảy sinh.
Chú trọng 3 nhóm giải pháp
Đã có nhiều Viện nghiên cứu đưa ra các kịch bản, kiến nghị nhiều nhóm giải pháp toàn diện, nhưng ở góc nhìn từ tiền tệ, chúng tôi cho rằng 3 nhóm giải pháp sau đây là cực kỳ quan trọng để nền kinh tế có thể duy trì tình trạng tồn tại và có cơ bứt phá đi lên sau khủng hoảng.
Một là, thanh khoản, thanh khoản và thanh khoản cho mọi nhóm đối tượng trong nền kinh tế, từ doanh nghiệp, đến người dân đều cần tiền mặt đắp ứng cho nhu cầu chi tiêu trước mắt để duy trì sự tồn tại.
Vì vậy, các gói cứu trợ từ ngân sách hay gói tín dụng cho vay mới phải đẩy nhanh tiền độ giải ngân qua thanh toán không dùng tiền mặt đúng như chủ trương của chính phủ, vào tài khoản thanh toán, thẻ ATM, vào ví điện tử,..Đề nghị giảm tiện thủ tục đến mức tối đa, các thông tư hướng dẫn phải rất cụ thể về tiêu chí hỗ trợ, đăng ký ID qua mạng, các thủ tục nhận chính là tin xác nhận (miến phí)...
Hai là, đây là giai đoạn trì trệ của kinh tế, giá cả hàng hóa thế giới đang giảm sâu, nhất là giá dầu, vì thế lạm phát có thể trước mắt chưa có cơ gia tăng, nhưng nếu toa thuốc cứu trợ không cân bằng thì nguy cơ bùng phát trở lại khi kinh tế hoạt động trở lại.
Bài học xương máu của Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011, sau các gói hỗ trợ lãi suất 1 tỷ USD & kích cầu từ chi tiêu công năm 2009... đưa lạm phát bùng lên 18,21% năm 2011 cũng như sau đó là hệ lụy của sự bất ổn kinh tế vĩ mô phải mất nhiều năm sau củng cố.
Do vậy, Chính phủ cần ưu tiên sử dụng các gói cứu trợ từ tài khóa, những khoản tiền đã thu từ nền kinh tế nay quay lại phục vụ chính nó sẽ ít làm gia tăng tiền trong lưu thông. Gói hỗ trợ từ CSTT nên được xem xét rất thận trọng trên cơ sở hấp thụ vốn từ nền kinh tế thực, tiền bơm ra phải tới đúng mục tiêu phục vụ sản xuất, kinh doanh để gia tăng hàng hóa cho nền kinh tế nhằm hạn chế tối đa sự bùng nổ của tài sản tài chính có thể gây nên lạm phát cao cho chu kỳ sau.
Ba là, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt việc rà soát về giải ngân đầu tư công. Nếu giải ngân chậm trễ thì kiên quyết cắt giảm, điều chuyển vốn sang dự án cấp bách ưu tiên hàng đầu về hạ tầng giao thông; hạ tầng cho phát triển kinh tế số; hạ tầng phát triển nông nghiệp thông minh như: các dự án tuyến đường cao tốc, dự án đường truyền thông băng rộng, phát triển mạng 5G, xây dựng cơ sở dữ liệu cho nền kinh tế số, dự án hạ tầng tưới tiêu thông minh nhằm chuẩn bị cho một sự thay đổi trạng thái mới về phát triển mạnh mẽ kinh tế số của Việt Nam.
Đây chính là thời điểm cần những quyết sách rất cụ thể có tính bước ngoặt lịch sử đối với Việt Nam hoặc là bứt phá đi lên hoặc là dẫm chân tại chỗ.
Phạm Xuân Hòe
Chỉ định thầu cao tốc Bắc-Nam: Ưu tiên doanh nghiệp nào? Không ít chuyên gia cho rằng, việc chỉ định thầu cụm 9 dự án có tổng mức đầu tư hơn 93.000 tỷ đồng có nhiều rủi ro... Chính phủ đồng ý chủ trương chuyển đổi 8 dự án đường cao tốc Bắc-Nam phía Đông và cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ sang hình thức đầu tư công, còn Bộ KH&ĐT tham mưu...