Sớm muộn gì Trung Quốc cũng phải ký COC?
Đương nhiên, Bắc Kinh chẳng mấy vui vẻ, thậm chí tờ Nhân dân nhật báo hôm 16/8 đã khẳng định dù Trung Quốc có đồng ý COC,hòa bình chưa chắc đã có ở Biển Đông nếu không theo luật chơi của TQ.
Thực ra đây chỉ là biểu hiện một thái độ cay cú, hậm hực của một tờ báo hay thậm chí của giới quá khích trước một chiến lược lớn đầy tham vọng của mình không thành công chứ không phải là cái tầm, tư cách, của một quốc gia trong xã hội hiện đại.
Chẳng ai, chẳng quốc gia nào ép Trung Quốc ký hay không ký COC mà chính căn cứ từ yếu tố chủ quan, khách quan tình hình khu vực, Trung Quốc biết phải làm gì để “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Khi đã ký COC là phải thực hiện, còn thực hiện nghiêm túc hay không thực hiện là quyền của Trung Quốc, nhưng nếu thế, ký mà không thèm thực hiện, hệ lụy, hậu quả của thái độ, hành động đó sẽ khôn lường.
Dù sao, sớm muộn gì Trung Quốc sẽ đồng ý ký (COC) mà các nước ASEAN đưa ra bởi có 2 nguyên nhân cơ bản buộc Trung Quốc phải thay đổi phương pháp thực hiện chiến lược.
Tình thế Biển Đông đã thay đổi
Với Biển Đông (hay biển Nam Trung Hoa hay Biển Đông Nam Á), nếu như có đủ khả năng thì Trung Quốc có thừa ngạ.o mạ.n để vẽ cái gọi là “Bản đồ đường lưỡi bò” đến tận eo biển Malacca.
Eo biển Malacca và Biển Đông có thể nói là con đường “sinh mạng” của không những Trung Quốc mà còn là của Nhật Bản. Mỹ cũng tuyên bố có “lợi ích quốc gia” ở đây. Do vậy, bảo vệ an ninh hàng hải, an toàn cho hàng hải trên Biển Đông và eo biển Malacca là mong muốn không của riêng ai.
Tuy nhiên, bất cứ quốc gia nào, tùy theo khả năng đều cũng muốn khống chế tuyến hàng hải này khi cần thiết. Đây chính là “cái núng đồng tiề.n của nữ thần chiến tranh” hay là mầm mống đầy quyến rũ nhưng vô cùng nguy hiểm.
Trong khi đó, các quốc gia trong khu vực ĐNA, Biển Đông với họ vừa là chủ quyền bao đời nay sinh sống tồn tại, vừa có quyền chủ quyền theo UNCLOS…
Như vậy có thể nói, Biển Đông không phải của riêng ai, cho nên, ý tưởng chiếm trọn một mình là sẽ gặp vô vàn khó khăn, sẽ bị nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới chống lại. Tách Mỹ, Nhật Bản, Nga…ra khỏi Biển Đông, cũng như tách Trung Quốc ra khỏi eo biển Hormuz vì không liên quan là không hợp logic trong thời buổi toàn cầu hóa.
Chiếm trọn Biển Đông bằng cách vẽ trên bản đồ thì chẳng có ý nghĩa gì, chỉ khi nào Trung Quốc áp đặt được luật của Trung Quốc trên Biển Đông mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân thủ, mới coi như chiếm trọn được Biển Đông.
Nhưng, muốn như vậy thì phải bằng sức mạnh, mà trong tình hình hiện nay, đối đầu với một ASEAN đoàn kết đã là khó khăn, không thể ngày một ngày hai làm chủ được tình hình, trong khi nền kinh tế lại quá nhạy cảm với 29/39 tuyến đường của Trung Quốc trên Biển Đông, huống chi gồm cả Mỹ, Nhật Bản sẽ can thiệp thì Trung Quốc chưa thể.
Sẽ là duy ý chí nếu Trung Quốc quyết tâm thực hiện bằng được chiến lược này.
Tương lai u ám của đường ống chiến lược của Trung Quốc xây dựng tại Myanmar gây khó khăn cho chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà”.
Video đang HOT
Cục diện địa chính trị ĐNA đã thay đổi
Ở đây, Myanmar là điểm nóng mà chúng ta cần quan tâm nhất trong chiến lược của Trung Quốc.
Trong thời kỳ bị cấm vận, Myanmar đã trở thành cái sân sau hoàn toàn của Trung Quốc như thuộc địa. Với vị trí địa lý, tài nguyên năng lượng, Myanmar có một địa chiến lược cực kỳ quan trọng với Trung Quốc mà biểu hiện rõ nhất là 2 đường ống dẫn dầu và khí đốt được khởi công từ năm 2004.
Nó gồm 2 đường song song, một cho dẫn dầu từ Trung Đông với công suất 22 triệu tấn và một cho dẫn khí đốt sản xuất tại chỗ với công suất 12 tỷ m3. Cả 2 đường ống dẫn này có chiều dài 739km, bắt đầu từ các mỏ khí tự nhiên ở bang Rakhine chạy qua Vân Nam và Quảng Tây là điểm cuối cùng.
Ngày 28/7/2013, dòng khí tự nhiên bắt đầu vận chuyển qua đường ống nhưng thấp hơn nhiều so với dự kiến. Do bạo lực leo thang dọc theo đường ranh giới giữa bang Shan và Kachin, nơi có đường ống chạy qua Vân Nam đến Quảng Tây có khả năng bị trì hoãn thay vì hoàn thành vào tháng 9/2013, trong khi dầu chưa thể vận chuyển cho tới tháng 6/2014 (New York 7/8).
Việc xây dựng đường ống dẫn năng lượng trên đất liền Trung Quốc – Myanmar giúp cho Trung Quốc an toàn hơn thay cho tuyến vận chuyển đường biển qua eo biển Malacca và Biển Đông khi chiến sự nổ ra. Hơn ai hết Trung Quốc đã biết rõ ngón đòn này khi đã cho Nhật Bản nếm sự lợi hại bằng cách cắt nguồn cung đất hiếm.
Đa dạng hóa nguồn cung năng lượng…phòng tình huống xấu nhất xảy ra cho kinh tế, an ninh quốc gia là sách lược không chỉ Trung Quốc áp dụng. Chính vì thế mà 2 đường ống Trung Quốc – Myanmar có tầm chiến lược rất quan trọng với Trung Quốc, đến mức khiến người ta cho rằng, hơn 20 năm qua, Trung Quốc đã thực dân hóa dần dần khu vực có 2 đường ống này đi qua.
Nhưng, do chủ quan, đán.h giá thấp trào lưu dân tộc chủ nghĩa trong ban lãnh đạo quân sự ở Myanmar mà Trung Quốc đã nhận được những bài học đầu tiên về hành động thực dân hóa của mình. Đó là tiến trình dân chủ hóa ở Myanmar.
Từ khi Myanmar tiến hành chuyển đổi chính trị, lực lượng đối lập đã phát triển mạnh mẽ. Sự phản đối mạnh mẽ với dự án đậ.p thủy điện Myitsone buộc Myanmar dừng dự án “theo ý nguyện của người dân” khiến Trung Quốc nổi giận.
Lo ngại với 2 đường ống chiến lược của mình là có cơ sở khi những nhà hoạt động xã hội lưu vong có mối quan hệ với Đảng phát triển dân tộc vùng Rakhine, nơi có đường ống dẫn dầu khí, bắt đầu đã ra thông báo chỉ trích dự án vào ngày dòng khí được bơm vào đường ống đầu tiên, ngày 28/7.
Đảng này cho rằng, khu vực này không nhận được lợi ích gì từ đường ống này.
Đây là miếng đất màu mỡ cho Mỹ “gieo giống” dân chủ để có thể khiến cho ít nhất đường ống phải “đàm phán lại”.
Khó khăn, mất an toàn cho 2 đường ống chiến lược của Trung Quốc chưa dừng ở đó. Trước năm 2010, do muốn bảo đảm an ninh cho đường ống, Trung Quốc đã hậu thuẫn cho các tổ chức chống nhà nước Myanmar như Kachin, Shan, Wa.
Hiện nay, Myanmar đang quyết tâm củng cố quyền kiểm soát với các nhóm thiểu số này để khẳng định chủ quyền của mình ở khu vực. Myanmar đã dùng đường ống dẫn dầu, khí này để làm đòn bẩy nhằm hạn chế sự can thiệp của Trung Quốc (đã có lúc xung đột xảy ra khiến Trung Quốc phải điều quân đến biên giới).
Lúc này, Trung Quốc dù theo bên nào thì hậu quả đường ống chiến lược của nước này cũng đều bị lãnh đủ.
Đài tiếng nói nước Nga có một câu bình luận khá hay về đường ống Trung Quốc – Myanmar: “Trung Quốc vòng tránh bãi đá ngầm Mỹ ở eo biển Malacca” nhưng chưa đủ. Phải là “tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa” mới đủ.
Đường ống chiến lược quan trọng của Trung Quốc chạy qua một môi trường an ninh bất ổn không theo luật lệ nào, khó dự đoán, khiến Trung Quốc sẽ vào thế bị động đối phó.
Trong khi đó, hoạt động thương mại, vận chuyển năng lượng trên tuyến đường hàng hải qua eo biển Malacca và Biển Đông của Trung Quốc chưa quốc gia nào cản trở, phong tỏa nếu như Trung Quốc không buộc họ phải làm thế.
Myanmar, ván c.á cượ.c chiến lược lớn của Trung Quốc đã cho kết quả. Liệu Trung Quốc có đủ tự tin, bản lĩnh để c.á cượ.c “con đường sinh mạng” của mình?
Theo Báo Đất Việt
Ấn Độ: Tham vọng mở rộng lợi ích trên Biển Đông
Với hai dấu mốc quan trọng ra mắt tàu sân bay nội địa đầu tiên INS Vikrantvà tàu ngầm hạt nhân INS Arihant, Ấn Độ đã thể hiện rõ quyết tâm đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa hải quân nhằm khẳng định vị trí hàng hải trong khu vực châu Á.
Tàu sân bay nội địa đầu tiên INS Vikrant của Ấn Độ
"Hàng hải châu Á" đang trở thành đề tài nóng trong những năm gần đây khi các quốc gia trong khu vực gắn liền tăng trưởng kinh tế với thương mại đường biển. Do đó, để bảo vệ những lợi ích hàng hải, chính phủ Ấn Độ đã thể hiện tham vọng tột cùng xây dựng "một lực lượng Hải quân đa chiều hiện đại" với "độ bao phủ rộng và bền vững".
Hiện nay, Ấn Độ được công nhận là cường quốc hải quân đứng thứ 5 trên thế giới với kế hoạch đóng thêm 160 tàu hải quân, cùng lực lượng chiến đấu hùng mạnh gồm 3 tàu sân bay hoàn thành vào năm 2022.
Tuy nhiên, trên thực tế, những tham vọng hàng hải của Ấn Độ lại đang đối mặt với không ít thách thức bởi vị trí đường biển của quốc gia này nằm trong khu vực vốn có nhiều tranh chấp. Bên cạnh đó, Biển Đông - nơi ghi nhận 55% hoạt động thương mại đường biển của Ấn Độ đi qua Eo biển Malacca, là khu vực mà nhiều quốc gia đang muốn nắm giữ trung tâm.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng từng lên tiếng không hài lòng với việc lực lượng Hải quân Ấn Độ hiện diện trên Biển Đông. Bằng chứng là những báo cáo hồi tháng 7/2011 cho thấy tàu Hải quân Ấn Độ đã nhận được một cuộc điện đàm trên sóng radio từ tàu Hải quân Trung Quốc yêu cầu rút khỏi vùng biển tranh chấp trên Biển Đông.
Thiết lập lợi ích hàng hải bền vững
Tàu ngầm hạt nhân INS Arihant do Ấn Độ sản xuất
Mặc dù, thực tế, Ấn Độ không chia sẻ đường biên giới biển trên Biển Đông song những lợi ích hàng hải mà New Delhi muốn nắm giữ đã hoàn toàn được phơi bày. Mặc dù không "to mồm" như Mỹ khi tuyên bố những tranh chấp lãnh hải trên Biển Đông là "lợi ích quốc gia" vào năm 2010, New Delhi đã kêu gọi một giải pháp hòa bình và tự do hàng hải thậm chí tăng cường mối quan hệ mật thiết với những quốc gia cùng chia sẻ lợi ích trên Biển Đông.
Kể từ lần đầu tiên triển khai hoạt động trên Biển Đông năm 2000, Hải quân Ấn Độ đã ghi dấu ấn tham gia nhiều chương trình trong khu vực như viện trợ nhân đạo và cứu nạn thiên tai, tập trận chung trên biển và cảng biển. Điển hình, Hải quân Ấn Độ đã tham gia tích cực vào hoạt động cứu trợ sau thảm họa sóng thần năm 2004 và lốc xoáy tại Myanmar năm 2008. Thậm chí, Hải quân Ấn Độ còn hộ tống các tàu hải quân Mỹ đi qua Eo biển Malacca trong "Chiến dịch Tự do bền vững" năm 2002.
Trong đó, quần đảo Andaman - Nicobar được xem là cánh cửa chốt lối ra vào eo biển Malacca - tuyến đường biển nối liền với Biển Đông, hỗ trợ bảo vệ những lợi ích hàng hải của quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới. Ngoài căn cứ trên quần đảo Andaman - Nicobar, Ấn Độ còn cho thành lập trạm tiề.n tiêu nhỏ - trạm hàng không vịnh Campbell, cực nam quần đảo Andaman hồi tháng 7/2012.
Tránh tái diễn "bài học" trên Ấn Độ Dương
Hải quân Ấn Độ được triển khai tới Biển Đông từ năm 2000
Nhằm bảo vệ các nguồn năng lượng ngoài khơi và lối đi an toàn cho tàu bè qua Eo biển Malacca, Ấn Độ đã chọn phương án mở rộng tầm ảnh hưởng sang khu vực Biển Đông. Đây cũng là con đường ngăn chặn những tranh chấp lãnh hải mà Trung Quốc đang triển khai trên Biển Đông không xâm lấn sang Ấn Độ Dương.
Điển hình, các sự kiện gần đây trên Biển Đông có thể là điềm báo cho thái độ của Trung Quốc trên khu vực Ấn Độ Dương, khi mà Bắc Kinh đẩy mạnh bảo vệ các tuyến đường biển liên quan tới "lợi ích cốt lõi" bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong cuộc tranh chấp lãnh biên giới lục địa và hàng hải cũng như tái hợp nhất Đài Loan.
Sự hiện diện với tần suất ngày càng cao của hải quân trung Quốc trên Ấn Độ Dương có thể thay đổi vị trí của Bắc Kinh trên Biển Đông. Không những vậy, Trung Quốc còn tham gia vào những tranh chấp biên giới hàng hải với những quốc gia láng giềng của Ấn Độ như Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka, đồng thời thu thập thông tin tình báo và khai thác các nguồn tài nguyên gần bờ biển Ấn Độ.
Theo báo cáo hồi tháng 1/2009, một tàu ngầm Ấn Độ và đơn vị hải quân Trung Quốc từng được đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu gần Eo biển Bab-el-Mandeb trên Vịnh Aden - một dấu hiệu càng khẳng định nguy cơ xảy ra xung đột giữa hai quốc gia trên Ấn Độ Dương. Đây cũng là lý do Ấn Độ tăng cường sự hiện diện trên Biển Đông nhằm ngăn chặn thái độ hung hăng của Trung Quốc lặp lại trên Ấn Độ Dương.
Thay đổi cấu trúc khu vực
Hải tặc - vấn nạn nhức nhối trên Ấn Độ Dương
Việc Ấn Độ gây dựng ảnh hưởng trên Biển Đông diễn ra trong bối cảnh Mỹ thi hành chính sách ngoại giao hướng tới khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Nói cách khác, Washington vừa muốn tái cam kết giữ gìn hòa bình trong khu vực và vừa kêu gọi các đồng minh chia sẻ trách nhiệm này.
Điển hình, Nhật Bản liên tục kêu gọi các đối tác tiến hành họp bàn an ninh khu vực song phương và đa phương. Trong đó, thủ tướng Nhật Bản - Shinzo Abe từng đề xuất xây dựng "khối kim cương an ninh" nhằm "bảo vệ những lợi ích hàng hải chung kéo dài từ Ấn Độ Dương tới phía tây Thái Bình Dương".
Thậm chí, Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ - Shiv Shankar Menon còn khởi xướng chương trình "Phối hợp hàng hải". Trong đó, các cường quốc hàng hải trong khu vực có trách nhiệm bảo vệ lợi ích tối cao như xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản làm nhiệm vụ tuần tra chống cướp biển trên Ấn Độ Dương.
Theo Infonet
Chuyên gia Nga nêu quan điểm về Biển Đông Phó Giám đốc Viện hàn lâm khoa học Nga nói về quan điểm của nước này trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tiếng nói nước Nga đăng bài nói về quan điểm của Nga với vấn đề Biển Đông. Theo báo này, đà gia tăng sự hợp tác của Nga với các nước Đông Nam Á, đặc biệt là...