Sau cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động kém hiệu quả
Cổ phần hóa (CPH), thoái vốn đã chậm, song sau CPH, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN dù có xu hướng tăng nhưng mức tăng vẫn rất khiêm tốn. Thậm chí, nhiều DN sau CPH vẫn hoạt động kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nên không bảo toàn được vốn chủ sở hữu.
Đây là thông tin được đại diện Bộ Tài chính đưa ra tại cuộc Họp báo chuyên đề ngày 10-12-2019 về “Tình hình tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2018; kết quả tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) năm 2019″.
Theo số liệu tổng hợp tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2018 của 505 DNNN, tổng tài sản của các DNNN là 2.937.871 tỷ đồng, tăng 2% so với thực hiện năm 2017. Tỷ trọng tài sản cố định bình quân chiếm 39% tổng tài sản, trong đó khối các Tập đoàn, Tổng công ty, công ty mẹ – con có tổng tài sản là 2.690.431 tỷ đồng, chiếm 92% tổng tài sản; các công ty TNHH MTV độc lập còn lại chiếm 8% tổng tài sản.
Về tình hình tài chính của các DN có cổ phần, vốn góp của Nhà nước, báo cáo tổng hợp từ 350 DN cổ phần cho thấy, khối DN này có xu hướng tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, vẫn còn có một số DN sau CPH hoạt động kém hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nên không bảo toàn được vốn chủ sở hữu.
Cụ thể, năm 2018, tổng tài sản theo báo cáo hợp nhất của các DN cổ phần là 777.315 tỷ đồng, tăng 2% so với thực hiện năm 2017. Về nguồn vốn, tổng số nợ phải trả của các DN cổ phần theo báo cáo hợp nhất là 397.154 tỷ đồng, trong đó, nợ ngắn hạn chiếm 65% tổng số nợ phải trả.
Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước vẫn chậm. Ảnh minh họa
Khối Tập đoàn, Tổng công ty, công ty mẹ – con cổ phần có tổng số nợ phải trả theo số liệu báo cáo hợp nhất là 351.733 tỷ đồng, chiếm 88,6% tổng số nợ phải trả của các DN cổ phần. Về tiến độ CPH, dù đã được đặt ra theo chỉ tiêu nhưng tiến độ vẫn chậm từ năm này sang năm khác. Đến thời điểm này, mới có 9 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH.
Trong đó, chỉ có 3 DN thuộc danh mục CPH theo Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10-7-2017 phê duyệt Danh mục doanh nghiệp Nhà nước hoàn thành CPH theo từng năm giai đoạn 2017-2020 và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg ngày 15-8-2019 của Thủ tướng Chính phủ… Như vậy, giai đoạn 2016 – 2019, cả nước đã có 168 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị DN là 443.056 tỷ đồng; trong đó, giá trị vốn nhà nước là 206.694 tỷ đồng.
Ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) nhận định, trong 168 DN đã CPH chỉ có 36 DN CPH thuộc danh mục 128 DN CPH theo quy định (đạt 28% kế hoạch), số DN còn phải thực hiện CPH theo kế hoạch tính đến hết năm 2020 là 92 DN.
Video đang HOT
“Mặc dù đã được nhắc nhở, đôn đốc nhưng tiến độ CPH các DN tiếp tục chậm, không đạt được kế hoạch đề ra. Nhiều đơn vị còn tồn nhiều DN thuộc danh sách phải thực hiện CPH, trong đó có hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh chiếm tới 54% số DN trong danh mục nhưng thời gian qua vẫn “án binh bất động”.
Cụ thể, TP Hà Nội còn phải CPH 13 DN (4 tổng công ty), chiếm 14% kế hoạch. TP Hồ Chí Minh CPH 38 DN (11 tổng công ty), chiếm 40% kế hoạch. Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại DN CPH 6 DN (3 tập đoàn, 3 tổng công ty). Bộ Công thương CPH 4 DN (3 tổng công ty). Bộ Xây dựng CPH 2 tổng công ty”, ông Tiến thông tin.
Tương tự, về thoái vốn, năm 2019 đã có 13 DN thuộc danh mục ban hành thực hiện thoái vốn với giá trị 896 tỷ đồng, thu về 1.839 tỷ đồng. Lũy kế, từ năm 2017 – 2019, thoái vốn nhà nước tại 92 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg với giá trị 4.704 tỷ đồng, thu về 8.964 tỷ đồng mới đạt 7,8% kế hoạch.
“Tiến độ CPH, thoái vốn, phê duyệt phương án cơ cấu lại chậm, không đạt được theo kế hoạch đã đề ra. DNNN chậm quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần; chậm bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về SCIC, chưa đảm bảo kế hoạch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ” – Cục trưởng Đặng Quyết Tiến cho biết.
Bên cạnh đó, nhiều DN chậm đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của thị trường. Đồng thời, chậm đổi mới công tác quản trị DN sau CPH theo thông lệ và chuẩn mực của các DN trên thị trường chứng khoán, cũng như hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các DN này.
Hà An
Theo cand.com.vn
Nhiều DNNN "sợ" lên sàn, còn DN tư nhân đủ sức lên sàn thì "phải đợi"?
"Về phương diện nào đó, đúng là nhóm các doanh nghiệp có vốn tư nhân có vẻ đang bị "thiệt thòi" hơn về điều kiện niêm yết so với doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa", TS. luật Trần Đình Nhã, người có nhiều năm là đại biểu Quốc hội cũng như hoạt động trong lĩnh vực pháp chế và nghiên cứu về pháp lý, nguyên Phó trưởng Ban biên tập Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi), nhận xét trong cuộc trao đổi với báo Pháp luật VN.
Chưa bình đẳng về điều kiện
PV: Tính đến cuối tháng 9/2019, đã có hơn 2.100 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam, với tổng vốn hóa toàn thị trường vượt 5,6 triệu tỷ đồng, một bước tiến rất xa so với giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động gần hai thập kỷ trước. Nhưng về điều kiện niêm yết chứng khoán, liệu các doanh nghiệp có vốn tư nhân đã "bình đẳng" với các doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa, theo đánh giá của ông?
TS. luật Trần Đình Nhã: Niêm yết chứng khoán được hiểu là quá trình định danh các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Về nguyên tắc, tất cả những chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện thì đều có cơ hội như nhau trong việc giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán, tức là thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức.
Khi xét về điều kiện niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam, Nghị định 58/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật Chứng khoán và Luật Chứng khoán sửa đổi có đưa ra quy định là, doanh nghiệp cần có ít nhất 2 năm (đối với Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, hoặc 1 năm (đối với Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội ) hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết.
Tuy nhiên, quy định này lại được ngoại trừ đối với "doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa gắn với niêm yết".
Theo đó có thể hiểu rằng, các doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hóa nếu đáp ứng đủ các điều kiện về vốn, về lợi nhuận... sẽ được quyền niêm yết ngay mà không cần phải đợi đủ thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm dưới hình thức công ty cổ phần.
Cho nên tôi cho rằng về phương diện nào đó, đúng là nhóm các doanh nghiệp có vốn tư nhân có vẻ đang bị "thiệt thòi" hơn về điều kiện niêm yết so với doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa.
PV: Nhưng về phía doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa, còn tới hàng trăm doanh nghiệp vẫn "chưa chịu" lên sàn, theo danh sách được công bố cuối năm 2018 của Bộ Tài chính. Cụ thể là tính tới ngày 15/11/2018, vẫn còn 667 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa nhưng chưa thực hiện đăng ký giao dịch, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Có rất nhiều lý do được các doanh nghiệp đưa ra để giải thích cho sự chậm trễ mà đa phần là đổ lỗi cho khách quan. Nhiều doanh nghiệp cũng đã bị xử phạt do không thực hiện đăng ký giao dịch theo quy định. Ông bình luận như thế nào về thực tế này?
TS. luật Trần Đình Nhã: Như tôi đã nêu, việc một doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán phải phụ thuộc doanh nghiệp đó có đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn hay không. Đối với nhóm các doanh nghiệp Nhà nước cũng vậy.
Đặc biệt, thực trạng các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chưa được hiệu quả là thực tế không thể phủ nhận, có nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã và đang trong tình trạng hoạt động kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ, lỗ lũy kế trên vốn điều lệ cao, nợ ngân hàng lớn, hoặc đang trong quá trình giải quyết hậu quả sai phạm phát hiện trong thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng, không tổ chức được đại hội đồng cổ đông để xin ý kiến về phương án đưa cổ phiếu lên sàn, kiểm toán báo cáo tài chính nên không thực hiện được thủ tục niêm yết, đăng ký giao dịch...
Với thực tế đó, tôi cho rằng việc đưa ra chỉ tiêu và ấn định về thời hạn doanh nghiệp Nhà nước phải niêm yết là chưa thực sự phù hợp.
Quan trọng là chất lượng doanh nghiệp
PV: Vậy theo ông, để tránh tình trạng "kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra", đảm bảo công bằng cho doanh nghiệp mọi thành phần, luật về chứng khoán có cần sửa đổi hoặc bỏ quy định giới hạn về thời gian hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần trong tiêu chuẩn niêm yết dành cho các doanh nghiệp không phải doanh nghiệp Nhà nước không?
TS. luật Trần Đình Nhã: Tính đến năm 2019, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đang tạo ra khoảng 42% GDP, 30% thu ngân sách Nhà nước. Khối tư nhân cũng đang thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước.
Nên có thể nói, khối kinh tế tư nhân ở Việt Nam ngày càng phát triển và giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển của cả nền kinh tế.
Thực tế là rất nhiều doanh nghiệp thuộc khối kinh tế tư nhân, không phân biệt loại hình công ty cổ phần hay công ty TNHH..., có tốc độ phát triển lớn, quy mô vốn chủ sở hữu cũng như các tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu đạt ở mức độ cao...
Nên theo tôi, điều quan trọng nhất cần xem xét là lịch sử và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, còn thời gian của "mô hình hoạt động" không phải yếu tố quá quan trọng. Chính chúng ta cũng đang cho phép doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hoá ngay lập tức được niêm yết, tức là không hề đặt nặng về yếu tố thời gian, nhưng trong khi đó lại "ngoại trừ" doanh nghiệp tư nhân về chuyện này, thì đó chính là một sự đối xử bất bình đẳng.
Chưa kể, số năm đủ "thời gian hoạt động" theo luật cũng đang có nhiều cách hiểu: hoặc hiểu là năm hoạt động theo 365 ngày/năm, hoặc hiểu là năm tài chính, và cách hiểu nào cũng có lý.
Với những thực tế trên, dưới góc độ khuyến khích minh bạch trong nền kinh tế lẫn việc tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán, tôi cho rằng việc cho phép các doanh nghiệp có vốn tư nhân được niêm yết sau khi đáp ứng đủ các điều kiện niêm yết theo quy định của pháp luật hiện hành, với yếu tố "thời gian hoạt động" dưới hình thức công ty cổ phần cũng bình đẳng như các doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa, là một việc hoàn toàn đáng được xem xét và cân nhắc.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Quang Minh
Theo baophapluat.vn
Hàng loạt 'ông lớn' cổ phần hóa nhưng chưa chịu lên sàn Theo Bộ Tài chính, còn 755 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chưa thực hiện đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong số này góp mặt nhiều tên tuổi lớn như: Cty CP Khách sạn Thắng Lợi, Tổng công ty Thiết bị y tế Việt Nam, Cty CP Điện cơ Thống Nhất, Cty CP Vàng bạc đá...