Sạt lở đất nghi do công trình thủy điện Nà Tẩư, Cao Bằng
Từ cuối năm 2014, hiện tượng sạt lở và ngập úng đất nông nghiệp tại xã Độc Lập ( Quảng Uyên, Cao Bằng) diễn ra ngày một nghiêm trọng. Người dân và chính quyền xã cho rằng, tình trạng này do ảnh hưởng từ công trình Nhà máy thủy điện Nà Tẩư, thuộc xóm Pác Đa.
Đất nông nghiệp sạt lở tại xã Độc Lập, Quảng Uyên, Cao Bằng.
Dọc theo dòng sông, đoạn từ xóm Pác Đa, Đoỏng Pán đến hai xóm Nà Vường 1 và Nà Vường 2, xã Độc Lập có rất nhiều điểm đất ven sông bị sạt lở. Theo phản ánh của người dân, những khu vực đất này chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, do kết cấu đất ruộng, không có kè chắn và mực nước lên xuống liên tục, nhất là khi mưa lũ, nước mưa ngấm dần khiến đất bị bở và sạt lở.
Anh Phùng Văn Bắc, ở xóm Pác Đa nói, từ khi Nhà máy thủy điện Nà Tẩư, xóm Pác Đa, được đưa vào sử dụng năm 2004, đã xảy ra tình trạng sạt lở đất và ngập úng một số diện tích đất nông nghiệp. Thế nhưng, tình trạng này ngày càng nghiêm trọng khi nhà máy nâng công suất vào cuối năm 2014. Đất trồng sụt lở cả dãy hàng chục mét, khiến hộ dân sống quanh khu vực lo lắng vì mùa lũ đã đến gần.
Bí thư Đảng ủy xã Độc Lập, Bế Ích Đình cho biết, trước đây, việc xả lũ không kịp thời đã gây ra tình trạng ngập úng khoảng 80 ha đất nông nghiệp. Sau khi có kiến nghị, các ngành chức năng vào cuộc, nhà máy cam kết thực hiện xả lũ kịp thời, đúng thời điểm nên tình trạng ngập úng các diện tích đất canh tác được hạn chế. Tuy nhiên, nguy cơ mất đất nông nghiệp vẫn còn khi một số diện tích đất bị ngập úng trầm trọng, nhất là trong mùa mưa lũ. Trong khi đó, quá trình sạt lở diễn ra phức tạp khi mỗi ngày, nhà máy thủy điện xả một lượng nước lớn liên tục trong hai tiếng, mỗi ngày ba lần có khi cuốn luôn cả một dãy dài ruộng ngô đang trồng.
Trước tình trạng trên, nhân dân và chính quyền xã đã kiến nghị lên huyện từ nhiều năm. Đến đầu năm 2015, một số sở, ngành liên quan đến kiểm tra nhưng vẫn chưa có kết luận và phương án khắc phục cụ thể. Xã Độc Lập kiến nghị mong các cơ quan chức năng sớm khắc phục tình trạng trên và hỗ trợ kinh phí xây kè chắn đất, tránh tình trạng mất dần đất nông nghiệp, cũng như bảo vệ an toàn cuộc sống người dân.
Video đang HOT
PHONG CHƯƠNG
Theo_Báo Nhân Dân
Vị quan được vua Tự Đức thưởng chữ "liêm, bình, cần, cán" (2)
Năm đầu Kiến Phúc 1883, vị quan nhà Nguyễn Vũ Trọng Bình lại được phục chức cho làm công việc thương biện ở tỉnh Nghệ An, sau đó được triệu về Kinh.
Năm đầu Kiến Phúc (1883), vị quan nhà Nguyễn Vũ Trọng Bình lại được phục chức cho làm công việc thương biện ở tỉnh Nghệ An, sau đó được triệu về Kinh...
Vũ Trọng Bình là một vị quan nhà Nguyễn, công minh, chính trực. Không chỉ giỏi về mặt hành chính, ông còn có khả năng về mặt nông nghiệp và thường xuyên quan tâm đến đời sống của người nông dân. Ông được vua Tự Đức thưởng bốn chữ "liêm, bình, cần, cán".
Năm Giáp Tý (1864), năm Tự Đức thứ 17, quân thổ phỉ nhà Thanh tiến vào cướp phá tỉnh Lạng Sơn. Vua liền đổi Vũ Trọng Bình làm Tổng đốc hai tỉnh Ninh - Thái sung kinh lược những đạo Ninh - Thái - Lạng - Bình, cho 30 lạng bạc và phái 1.500 binh lính đi dẹp giặc.
Trị dân thế nào mà dân yên?
Vũ Trọng Bình mang cờ tiết lên Bắc Ninh, Cao Bằng bị giặc chặn đường tiếp tế lương thực, Vũ Trọng Bình liền đem quân đánh vào Quang Lang, thuộc Lạng Sơn, giặc bỏ đồn trốn ngay đêm hôm đó. Khi thông được đường trạm, Vũ Trọng Bình lại đem quân tiến đánh thành Lạng Sơn, đưa hịch cho các thân hào trong tỉnh Cao Bằng vận động nghĩa dũng, nơi thì đóng giữ chống chọi, nơi thì đặt phục binh đón đánh. Tháng 3/1886, quân Vũ Trọng Bình thu phục lại Cao Bằng, bọn trùm thổ phỉ là Trương Cận Bang, Lưu Sĩ Anh, Hoàng Trung, Ngô Hoài Khanh lần lượt xin hàng.
Ảnh minh họa.
Năm Mậu Thìn (1868) năm Tự Đức thứ 21, giặc Ngô ở Cao Bằng lại làm phản, đánh úp lấy thành. Vua cho Vũ Trọng Bình am hiểu tình thế biên cương, chuẩn cho làm Hiệp biện, lĩnh Tổng đốc Hà - Ninh, sung Khâm sai đại thần ở ba nơi quân thứ: Tuyên, Thái, Lạng để mưu tính đánh dẹp bọn làm phản. Năm Tự Đức thứ 22 (1869), khi hai tỉnh Lạng, Bình (Lạng Sơn, Cao Bằng) đã được khôi phục, Vũ Trọng Bình lại kiêm sung tổng đốc hai tỉnh đó. Sau đó giặc lại đánh cướp Tuyên Quang, Vũ Trọng Bình đã cùng Tán tương quân thứ Nguyễn Văn Tường thương lượng cùng tướng nhà Thanh Phùng Tử Tài hội quân cùng nhau tiễu trừ.
Mùa thu năm Canh Thìn (1880), nhân Vũ Trọng Bình vào chầu, vua hỏi: "Việc trận mạc ở ngoài biên Bắc Hà chưa biết ngày nào được yên. Hiện nay tham tán thì nhiều nhưng chưa có người nào vốn có phẩm vọng để cùng với Hoàng Kế Viêm bàn luận. Khanh, nếu như chung một chức hiệp đồng với Kế Viêm, cùng Kế Viêm thương nghị, có giúp nên việc được không?".
Vũ Trọng Bình tâu rằng: "Thần tính thô suất, việc binh lại không sở trường, không dám đảm đương, nếu cho thần ly nhiệm ở Lạng Sơn khi gặp việc cùng bàn luận, có thể nghe nhau".
Vua lại hỏi: "Thế khanh trị dân như thế nào mà dân yên?". Ông tâu: "Duy không dung túng lại nhũng, tư túi, nghiêm bắt trộm cướp, không cho phủ huyện kéo dài các việc kiện tụng của nhân dân, gặp việc phải xét xử nhanh chóng, bản thân tự trông coi thể lệ để chiếu cố cho nhân dân, thu phát rõ ràng".
Thua trận ở thành Vị Hoàng
Năm Quý Tỵ (1863), quân Pháp từ Hà Nội tới thành Nam Định, tàu chiến Pháp tới sông Vị Hoàng bắn phá dữ dội, quân bộ địch đánh vào cửa Đông, Vũ Trọng Bình cùng quan Bố chính Đồng Sĩ Vịnh, Án sát Hồ Bá Ôn ở trong thành chống chọi, Đề đốc Lê Văn Điểm ra thành giao chiến với giặc từ giờ Mão đến giờ Ngọ. Điểm chết, Hồ Bá Ôn bị thương, thành thất thủ. Vũ Trọng Bình bị cách chức, trở về Kinh chờ xét.
Lúc đó ông cũng đã bước vào tuổi 75. Ông vốn quan văn, khi đất nước lâm nguy, thiếu tướng cầm quân triều đình mới cử ông làm tướng. Vì thế, việc thua trận ở thành Vị Hoàng là lẽ thường. Triều đình suy xét cho ông nên không truy cứu trách nhiệm. Năm ấy, vua Tự Đức băng hà, nội bộ triều đình phân hóa thành hai cực; một bên chủ chiến, một bên chủ hòa. Dục Đức bị phế truất, Kiến Phúc lên ngôi.
Năm đầu Kiến Phúc (1883), Vũ Trọng Bình lại được phục chức cho làm công việc thương biện (thương mại) ở tỉnh Nghệ An sau đó được triệu về Kinh cất lên làm Thượng thư bộ Hộ (bộ Tài chính), nhưng ông xin về trí sĩ. Nhưng mãi đến năm Ất Dậu (1885) năm đầu niên hiệu Đồng Khánh, ông mới được chuẩn y với hàm Thượng thư hưu trí.
Năm Kỷ Hợi (1899), ông mất hưởng thọ 91 tuổi, được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ.
Tuấn Đạt
Theo_Kiến Thức
Người phụ nữ mang khối u to như quả bóng trên mặt Do không có tiền phẫu thuật, chị Lý Mùi Xiên (48 tuổi, bản Pát, Mai Long, Nguyên Bình, Cao Bằng) phải sống chung với khối u trên mặt 21 năm ròng. Hiện 2 khối u đã to như quả bóng, chèn kín hết mặt và bắt đầu vỡ. Khối u khổng lồ Đang chăm sóc vợ tại Bệnh viện K, khuôn mặt anh...