Sai lầm hay gặp của bố mẹ khi trẻ bị rotavirus
Ép trẻ uống nước oserol liên tục, dùng kháng sinh hay thuốc cầm tiêu chảy cho con, kiêng cho bé ăn thịt cá, đường sữa… là những hiểu lầm phụ huynh hay mắc khi chăm trẻ bị tiêu chảy do rotavirus.
Theo thạc sĩ Đặng Thúy Hà, Khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi trung ương, tiêu chảy cấp do rotavirus thường rầm rộ khi không khí lạnh và khô. Những ngày gần đây, nhiều trẻ phải nhập viện do bệnh này, không ít bé còn kèm viêm tiểu phế quản, viêm mũi họng.
Bác sĩ cho biết, trẻ thuộc lứa tuổi nào cũng có thể nhiễm rotavirus nhưng bệnh thường gặp ở trẻ dưới 2 tuổi. Tiêu chảy do nhiễm rotavirus nguy hiểm hơn tiêu chảy do các nguyên nhân khác nhiều. Trẻ nhiễm rotavirus có thễ dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Dưới đây là sai lầm hay gặp của bố mẹ khi con bị tiêu chảy cấp do rotavirus:
Bác sĩ Bệnh viện Nhi trung ương khám bệnh cho trẻ. Ảnh minh họa: MT.
Nhầm lẫn tiêu chảy do rotavirus với tiêu chảy thông thường
Tiêu chảy là biểu hiện thường gặp ở trẻ. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra như rối loạn tiêu hoá, thành ruột yếu và phổ biến nhất do nhiễm khuẩn, trong đó nguy hiểm hơn, trẻ có thể bị tiêu chảy do nhiễm rotavirus.
Sau khi trẻ nhiễm virus khoảng 24-48 giờ, bệnh bắt đầu bằng những biểu hiện như sốt, ói mửa nhiều và sau đó là đi ngoài tóe nước. Bệnh có thể kéo dài 7-10 ngày, thậm chí 15-20 ngày. Các triệu chứng nặng nhất thường có vào ngày thứ 3-4. Việc đi tiêu ra nước và nôn mửa nhiều khiến trẻ mất nước và điện giải.
Tiêu chảy do rotavirus nguy hiểm hơn các bệnh tiêu chảy khác vì hiện chưa có thuốc đặc trị. Để phân biệt tiêu chảy do rotavirus hay tác nhân khác thường dựa vào các triệu chứng nêu trên và được khẳng định bằng xét nghiệm.
Dùng kháng sinh hoặc thuốc cầm để chữa tiêu chảy do rotavirus
Vì sốt ruột khi thấy con tiêu chảy nhiều, mong con nhanh khỏi hoặc do nhầm lẫn trẻ bị tiêu chảy cấp do rotavirus với các dạng tiêu chảy thông thường khác, không ít phụ huynh cho con dùng kháng sinh hay thuốc cầm tiêu chảy.
Theo bác sĩ, khi trẻ bị nhiễm rotavirus, tuyệt đối không được cho uống thuốc kháng sinh. Việc uống kháng sinh không chỉ vô tác dụng mà còn làm trẻ có nguy cơ bị rối loạn vi khuẩn đường tiêu hóa, khiến bệnh nặng hơn hoặc gây tình trạng tiêu chảy kéo dài, chưa kể các tác dụng phụ do thuốc gây ra.
Bên cạnh đó, cha mẹ cũng không được cho con uống thuốc cầm tiêu chảy vì chúng không có tác dụng tiêu diệu virus mà còn làm giảm nhu động ruột, làm liệt ruột khiến phân không được thải ra ngoài. Khi đó, trẻ vẫn tiếp tục bị tiêu chảy, mà phân không được bài xuất ra ngoài, ứ đọng lại trong ruột gây chướng bụng, thủng ruột, tắc ruột, thậm chí dẫn đến tử vong.
Video đang HOT
Không chú ý phòng bệnh cho con
Nhiều cha mẹ chủ quan chỉ nghĩ việc chữa bệnh mà chưa quan tâm tới phòng bệnh cho trẻ.
Rotavirus lây nhiễm qua đường tiêu hoá và khả năng lây nhiễm rất cao. Loại virus này tồn tại trong môi trường và lưu lại trên tay vài giờ và trên bề mặt rắn như đồ chơi khoảng vài ngày. Nếu trẻ cho tay vào miệng sau khi tiếp xúc với các vật dụng mang virus thì khả năng nhiễm tiêu chảy cấp rất cao.
Biện pháp phòng ngừa chủ động và hiệu quả nhất cho trẻ hiện nay vẫn là dùng văcxin ngừa dạng uống. Văcxin này được cho trẻ uống từ 6 tuần tuổi trở đi, uống 2 lần cách nhau ít nhất là 1 tháng và nên uống trước 6 tháng tuổi. Một số trẻ uống văcxin ngừa tiêu chảy do rotavirus rồi vẫn có thể mắc bệnh, tuy nhiên thường những trẻ này ít khi có triệu chứng nặng.
Ngoài ra, cần chú ý giữ vệ sinh tay sạch sẽ để phòng bệnh cho trẻ. Nên tập cho trẻ thói quen rửa tay trước khi cầm thức ăn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Bên cạnh đó, cha mẹ cần đảm bảo đủ dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của con để nâng cao sức đề kháng, giúp cơ thể trẻ có đủ sức chống đỡ bệnh.
Bù nước cho trẻ không đúng cách
Trong điều trị tiêu chảy cấp do rotavirus, điều quan trọng nhất là bù nước, bù điện giải và cách tốt nhất là bằng oresol. Theo bác sĩ Đặng Thúy Hà, phụ huynh cần lưu ý pha oresol đúng tỷ lệ, không loãng hay đặc quá, nếu không sẽ càng gây rối loạn nước và điện giải, làm tình trạng tiêu chảy nặng hơn.
Nên cho trẻ uống nước oresol chậm, từng ít một. Với trẻ nhỏ thì đút từng thìa. Việc uống nhiều một lúc, uống liên tục sẽ khiến trẻ dễ bị nôn, oserol không hấp thu vào đường ruột được.
Khi nào cần đưa trẻ nhập viện
Trẻ bị tiêu chảy, nôn trớ nhưng vẫn ăn uống được, chơi bình thường thì bố mẹ có thể chăm sóc tại nhà, bù dịch cho bé bằng cách dùng nước oserol đúng, kết hợp với chế độ dinh dưỡng phù hợp. Cho bú bình thường, ăn các thức ăn dễ tiêu hóa như cháo loãng, chuối tiêu, uống sữa… và ăn nhiều bữa nhỏ. Nếu trẻ dùng sữa mà bị tiêu chảy nhiều thì nên dùng loại không có lactose.
Khi bé tiêu chảy và nôn nhiều, mệt mỏi, không ăn uống, không chơi, nằm li bì, có hiện tượng mất nước như mắt lõm, da chi nhăn nheo cha mẹ cần đưa con đến bệnh viện để được truyền dịch kịp thời.
Theo VNE
Hiểu và dùng đúng thuốc cầm tiêu chảy
Khi người bệnh bị tiêu chảy, cầm tiêu chảy là mong muốn đầu tiên, riêng với trẻ em thì đó còn là sự sốt ruột của cha mẹ. Nhưng cầm bằng cách nào, thuốc nào?
Thuốc cầm tiêu chảy cho dạng tiêu chảy không nhiễm khuẩn
Tiêu chảy dạng không nhiễm khuẩn còn gọi là tiêu chảy không đặc hiệu liên quan đến đường ruột như rối loạn tiêu hóa, viêm đại tràng... có ảnh hưởng lên sự chuyển hóa dịch - chất điện giải qua ruột (theo cơ chế khác) đưa đến kết quả giảm thể tích phân, tăng độ nhớt, tỷ trọng khối. Có hai loại thuốc cầm tiêu chảy không đặc hiệu thường dùng là loperamid và racecadotril. Chúng có những điểm giống và khác nhau.
Chúng giống nhau đều không có tính kháng khuẩn nên thường chỉ dùng trong tiêu chảy không do nhiễm khuẩn; còn trong tiêu chảy do nhiễm khuẩn không dùng riêng lẻ, nếu có dùng thì chỉ với vai trò phụ trợ, phối hợp. Nếu dùng phòng và trị tiêu chảy dạng không đặc hiệu thì chúng làm giảm được sự mất dịch, chất điện giải. Tuy nhiên, khi khi bị mất dịch - chất điện giải, chúng đều không có khả năng thay thế được việc bù dịch - chất điện giải bằng các thuốc truyền thống như oresol, dung dịch natri chlorua 0,9% hay dung dịch ringer lactate.
Chúng có vài điểm khác nhau về cơ chế, tác dụng không mong muốn cách dùng:
Loperamid là chất tổng hợp thuộc nhóm opiat. Tác dụng trực tiếp lên cơ dọc thành ruột, giảm nhu động thành ruột, tăng cường lực cơ vòng co thắt hậu môn ngăn quá trình tống thưc ăn, phân ra ngoài giảm tiết dịch đường tiêu hóa. Kết quả: làm giảm sự mất dịch - chất điện giải, giảm thể tích phân, cầm tiêu chảy mạnh, nhanh. Racecadotril ức chế enzym enkephalinase qua đó làm giảm tiết dịch - chất điện giải vào ruột khi có sự tăng tiết, giảm mất dịch - chất điện giải, giảm thể tích phân, cầm tiêu chảy nhưng không mạnh, nhanh bằng loperamid.
Một nguyên tắc trong điều trị tiêu chảy nhiễm khuẩn là không được giữ phân lại lâu trong ruột. Loperamid với cơ chế tác dụng trên sẽ giữ lại phân ở ruột lâu; từ đó, tăng sinh vi khuẩn ruột, bùng phát trở lại sự nhiễm khuẩn. Trong trường hợp vi khuẩn tiết ra chất độc, loperamid giữ lại chất độc và tăng chất độc.
Tác dụng không mong muốn này xẩy ra khi dùng loperamid phối hợp trong điều trị tiêu chảy nhiễm khuẩn với liều cao kéo dài (gây giảm nhu động ruột, tăng sự co vòng cơ thắt và quá mức). Trong khi đó racecadotril có cơ chế làm giảm tiết dịch mà không giảm nhu động ruột, tăng trương lực cơ vòng co thắt hậu môn, nên không có tác dụng không mong muốn này. Cũng vì thế phạm vi liều dùng của racecadotril rộng hơn.
Loperamid là một opiat tổng hợp, dùng cho người lớn, ít độc cho hệ thần kinh trung ương như opioic tự nhiên. Tuy nhiên, loperamid có thể gây độc cho thần kinh của trẻ dưới 6 tuổi. Cho nên, loperamid không được đưa vào thường quy điều trị tiêu chảy cho trẻ em dưới 6 tuổi. Racecadotril không thuộc nhóm opoiat, không có các tác dụng không mong muốn này, có thể dùng cho trẻ từ 3 tháng tuổi trở lên.
Loperamid khi dùng liều cao kéo dài sẽ gây táo bón, buồn nôn, khô miệng, chướng bụng, tắc liệt ruột (do giảm nhu động ruột, tăng trương lực cơ vòng co thắt hậu môn quá mưc); gây nhức dầu chóng mặt, mệt mỏi (do tác động lên hệ thần kinh). Không được dùng loperamid với người nhu động ruột giảm sút, chướng bụng, không dùng cho người có thai (vì chưa có đủ thông tin), có thể dùng cho người cho con bú (vì tiết qua sữa rất ít) nhưng chỉ nên dùng liều thấp nhất có hiệu lực; thận trọng khi dùng cho người viêm loét dạ dày, suy giảm chức năng gan.
Trong vòng 48 giờ dùng loperamid riêng lẻ hay kết hợp với các thuốc trị tiêu chảy khác mà không có kết quả thì ngừng dùng, tìm giải pháp khác, mà không dùng tăng liều. Racecadotril với liều điều trị, hiện chưa ghi nhận được các tác dụng không mong muốn nào nghiêm trọng.
Những điều phân biệt nêu trên nhằm để dùng thuốc vào các trường hợp thích hợp, không hàm nghĩa so sánh độ tốt xấu của hai thuốc.
Thuốc cầm tiêu chảy cho dạng tiêu chảy nhiễm khuẩn
Tiêu chảy nhiễm khuẩn là do chính vi khuẩn hay độc tố vi khuẩn tiết ra sự mất dịch - chất điện giải. Muốn cầm tiêu chảy, phải dùng kháng sinh đặc hiệu cho mỗi loại nhiễm khuẩn.
Với nhiễm khuẩn shigella: các kháng sinh cổ điển như cot r imoxazol bị vi khuẩn kháng 90% (2009), acid nalixidic bị vi khuẩn kháng 70%(2009) nên dùng không đáp ứng, không chăc chắn. Hiện theo WHO và nước ta cần cho dùng các fluorfoquinolon (cyprofloxaxin hay ofloxain, perfloxacin) hay ceftriaxon.
Với nhiễm khuẩn escherichia Coli: nếu là chủng E. Coli thông thường thì có thể dùng bactrim, berberin; nếu không dáp ứng có thể dùng các fluoroquinolon. Nếu là chủng sinh độc tố thì không dùng kháng sinh, vì sẽ làm tăng sự phóng thích độc tố gây chứng tán huyết - urê huyết cao.
Với nhiễm sallmonela thông thường (S.non-typhi ): khi nhiễm một lượng lớn, sinh ra đủ độc tố, mới gây nhiễm độc. Biểu hiện rất dữ dội: đau quặn bụng, đi ngoài nhiều lần, sốt. Tuy nhiên, khi tách khỏi nguồn lây thì bệnh không nặng thêm. Chỉ cần dùng thuốc chữa triệu chứng.Với người lớn khỏe mạnh, không nhất thiết dùng kháng sinh. Với người già, trẻ em (sức đề kháng yếu) có thể dùng kháng sinh hỗ trợ. Dùng bactrim, nếu không đáp ứng thì dùng các fluoroquinolon.
Với nhiễm sallmonela enterica typhi (thương hàn): các kháng sinh đặc hiệu cổ điển chloramphenicol, bactrim nay đã bị kháng thuốc rất cao (qua nhiều vụ dịch, thấy không còn đáp ứng).
Nhất thiết phải dùng kháng sinh đặc hiệu loại mới fluoroquinolon như ofloxacin (uống hay tiêm). Ngay từ đầu, không được dùng một liều mạnh (vì vi khuẩn bị diệt quá nhiều sẽ sinh ra độc tố có hại làm nặng thêm các triệu chứng) mà chỉ dùng liều lúc đầu bằng 2/3 liều điều trị thông thường và tăng dần đến khi đạt hiệu quả (bằng liều điều trị thông thường) và duy trì cho dến lúc khỏi bệnh. Sau một đợt dùng, bệnh sẽ khỏi. Tuy nhiên, ở một số người bệnh, tuy không còn triệu chứng nhưng xét nghiệm phân vẫn còn vi khuẩn; cần dùng một đợt kháng sinh khác chữa dứt điểm.
Với nhiễm campylobacter: do nhiễm khuẩn từ thịt gia cầm chưa nấu chín. Dùng kháng sinh erythromycin nhưng sau 4 ngày mới có hiệu quả; nếu không đáp ứng, có thể dùng kháng sinh fluoroquinolon.
Với nhiễm virus: hay gặp nhất là nhiễm rotavirus (ở trẻ nhỏ), hay norovirus (nhiều hơn ở người lớn). Có thể phát thành dịch nhưng không nguy hiểm. Chỉ dùng thuốc chữa triệu chứng như bù mất dịch - chất điện giải.
Tiêu chảy do nhiểm khuẩn gây mất dịch - chất điện giải nhiều hơn tiêu chảy không do nhiễm khuẩn. Mất dịch - chất điện giải sẽ gây ra các rối loạn nội môi, quan trọng nhất gây trụy mạch tử vong. Dùng thuốc bù dịch - chất điện giải là giải pháp cấp cứu hàng đầu. Hiện nay, thầy thuốc cũng như người bệnh hiểu rõ tầm quan trọng và thực hiện điều này khá tốt.
Tuy nhiên nếu không quan tâm đúng mức đến việc xác định chủng nhiễm khuẩn, dùng kháng sinh đặc hiệu, thậm chí chỉ dùng kháng sinh qua quýt, không cân nhắc kỹ (như bất cứ tiêu chảy nào cũng dùng bactrim, dùng cả các kháng sinh đã bị kháng) thì sẽ không chữa khỏi bệnh mà còn lây vi khuẩn ra người khác, phát tán vi khuẩn vào môi trường gây ra dịch.
Dùng các thuốc cầm tiêu chảy không đúng
Xưa kia không có thuốc, thường dùng búp ổi lá sim, có chứa nhiều tannin làm săn niêm mạc ruột, cầm tiêu chảy. Nếu dạng tiêu chảy do rối loạn tiêu hóa, cách dùng này có thể sẽ làm rối loạn tiêu hóa thêm (do các phản ứng ngược chiều) nhất là với trẻ em. Nếu là tiêu chảy do nhiễm khuẩn, thì cách dùng này sẽ không kháng được vi khuẩn làm mất được nguyên nhân gây tiêu chảy (vì tanin không có tính kháng khuẩn).
Theo VNE
Xử trí khi trẻ đổ mồ hôi trộm Mồ hôi trộm đổ vào ban đêm dù thời tiết lạnh là một trong những nguyên nhân khiến trẻ dễ bị viêm đường hô hấp, viêm phổi. Bác sĩ Đinh Thạc (Bệnh viện Nhi đồng 1, TP HCM) đã giải thích nguyên nhân trẻ đổ mồ hôi trộm và đưa ra một vài biện pháp kiểm soát hiện tượng này để các bậc...