Rùng rợn chuyện heo “thành tinh” báo oán chủ lò mổ
Ít ai biết rằng đằng sau ngôi chùa Dơi còn có một khu nghĩa địa kỳ lạ chôn những chú heo được cho là đã … “thành tinh”. Những câu chuyện heo “thành tinh” báo oán chủ lò mổ khiến nhiều người sởn da gà.
Nghĩa địa độc nhất vô nhị và chuyện heo “thành tinh” báo oán
Cũng như những du khách khác, khi vào chùa Mã Tộc, còn gọi là chùa Dơi, ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất miền Tây, tôi hòa mình vào dòng người đi thẳng ra vườn cây cổ thụ trong khuôn viên chùa để xem đàn dơi. Phải công nhận, khu vườn dơi vô cùng kỳ thú, với hàng nghìn con dơi khổng lồ treo lủng lẳng kín ngọn cây. Mặc gió thổi khiến cây cối nghiêng ngả, mặc tiếng cười nói rổn rảng bên dưới, đàn dơi vẫn ngủ ngon lành, lấy sức sau một đêm miệt mài kiếm ăn. Ngôi chùa này là ngôi nhà an toàn nhất của chúng.
Khói hương tạ tội vì cả gan giết heo “thành tinh”
Sau khi thăm thú đàn dơi, tôi ngồi nghỉ ở chái chính điện ngôi chùa. Trên bậc thềm, một người đàn bà ăn mặc thời trang và một người đàn ông đang xì xụp chuẩn bị mâm lễ rất lớn, gồm đủ tiền vàng, gà luộc ngậm hoa, đặc biệt là một con heo vàng mã to như thật. Xưa nay, tôi chỉ thấy người đời làm vàng mã hình nhân, ngựa, rồng, xe cộ, máy bay, tên lửa … chứ tôi chưa từng thấy làm vàng mã bằng heo.
Tò mò, tôi theo người đàn ông và người đàn bà đi vòng ra phía sau chính điện chùa Mã Tộc. Họ đặt mâm lễ trước một ngôi mộ. Tôi thực sự bất ngờ, khi sau ngôi chùa không phải là bảo tháp cất xá lị của các sư trụ trì như thường lệ, mà là những ngôi mộ được xây cất theo hàng lối, có cả bia. Nhưng kỳ cục hơn, trên mỗi bia mộ vẽ hình một chú heo rất béo tốt, đẹp mắt, da trắng hồng. Có ngôi mộ ghi “Bà Hợi”, “Ông Hợi”, “Năm Hợi” …
Các bia mộ hình “Bà Hợi”, “Ông Hợi”, “Năm Hợi”…
Phía dưới tên là tuổi tác và thời gian sinh tử
Khi người phụ nữ khấn vái xì xụp một hồi, thì sai người đàn ông hóa vàng. Tôi rảo bước đi theo để bắt chuyện tìm hiểu. Anh này cởi mở cho biết: Anh là em chồng của người đàn bà kia. Vợ chồng anh trai của anh vốn là chủ một lò mổ lớn nhất nhì thành phố Sóc Trăng. Mỗi ngày, lò mổ của vợ chồng anh trai hóa kiếp hàng vài chục chú heo.
Vợ chồng anh ta là người Kinh, từ Bắc di cư vào, lại vốn vô thần vô thánh, nên chẳng quan tâm đến chuyện heo năm móng hay ba giò như đồng bào Khmer ở đây thường kể. Lò mổ của anh này có 7 thợ, mổ heo từ ba giờ sáng, đến năm giờ thì thịt đã ra thịt, xương ra xương để các lái buôn đến chở đi. Thông thường, anh ta cắt đặt công việc từ chiều hôm trước cho trưởng nhóm mổ, nhóm thợ cứ tự động làm. 5 giờ sáng, vợ chồng anh ta mới phóng xe đến để kiểm soát đầu ra, phân phối cho các đại lý đến lấy hàng.
Thế nhưng, hôm đó, vợ chồng anh này đến mà chưa con heo nào được mổ. Đám công nhân ngồi hút thuốc lào, uống nước chè chờ vợ chồng ông chủ tới. Anh này hỏi lí do, thì hai thợ mổ là người Khmer bảo rằng, có hai con heo đã… “thành tinh”, là do con người… hóa kiếp thành heo, nên không dám mổ. Hóa ra, trong đàn heo chuẩn bị mổ có hai con heo mà đồng bào ở đây gọi là heo năm móng và ba giò.
Mấy thợ mổ người Kinh thì không hiểu gì nhưng riêng hai thợ mổ người Khmer quê ở huyện Vĩnh Châu thì rất sợ hãi. Hai anh này còn đốt nhang cắm ngay cửa chuồng heo rồi khấn lấy khấn để. Nhìn cảnh ấy, đám thợ còn lại cũng hãi, không dám mổ heo, thống nhất chờ ông bà chủ đến giải quyết.
Quá tức giận, anh này đã sai thợ mổ mang chày cho mình. Rồi anh kêu nhóm thợ kéo lần lượt hai con heo mà thợ mổ của anh sợ hãi lên bàn mổ. Anh này vốn là thợ mổ lâu năm, nên mổ heo rất thuần thục. Mặc cho người vợ can ngăn, anh vung chày đập bốp một cái, chú heo há miệng quay đơ. Tay trái nắm tai, tay phải chích nhẹ, con dao bầu thấu cổ chú heo, máu xối ồ ạt ra chậu.
Chú heo “thành tinh” còn lại cũng chịu chung số phận. Để đám thợ không sợ hãi, anh trực tiếp cạo lông, rồi chỉ nhoáng nhoàng, thịt đã ra thịt, xương ra xương. Mổ xong, anh bảo: “Đây nhé, là heo chứ không phải là người nhé!”. Đám thợ còn lại thấy vía ông chủ thì chẳng sợ gì nữa, riêng hai anh thợ người Khmer thì mặt mũi tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy.
Vụ mổ heo sẽ chỉ bình thường như vô vàn những lần mổ heo khác, nếu như không có sự kiện khủng khiếp diễn ra với ông chủ này. Ngay sáng đó, sau khi chọc tiết hai con heo năm móng và ba giò, trên đường chở vợ về nhà chiếc xe tải chạy ngược chiều đâm thẳng vào chiếc xe máy của vợ chồng anh ta, hất văng hai vợ chồng lên vỉa hè. Điều kỳ lạ là người vợ không hề xây xát, nhưng anh chồng thì bất tỉnh, máu me vương vãi khắp nơi. Cũng ngày hôm dó, đám thợ bỏ việc hết, không dám làm việc ở lò mổ này nữa.
Lò mổ đóng cửa từ đó, ông chủ nằm viện suốt hai năm trời, tiêu tốn bạc tỷ mới đi cà nhắc được. Chuyện xảy ra đã bảy năm nhưng vợ chồng chủ lò mổ vẫn còn hãi hùng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày rằm, chị vợ lại chuẩn bị lễ lạt, hương khói ở nghĩa địa heo trong chùa Mã Tộc. Chị đã nhờ nhà chùa rước “linh hồn” hai chú heo “thành tinh” mà chồng chị sát hại về ngồi chùa này để thờ cúng, khói hương, mong “linh hồn” hai chú heo tha thứ.
Những câu chuyện rùng rợn về “heo thiêng trả thù”
Nghe xong câu chuyện kinh hãi về ông chủ lò mổ bị heo “thành tinh” báo oán, tôi vào chánh điện tìm gặp sư trụ trì. Tuy nhiên, bữa đó, Thượng tọa Kim Rêne, trụ trì chùa Mã Tộc đi vắng, chỉ có sư phó Tú Linh ở chùa tiếp khách. Sư phó Tú Linh bảo rằng, những chuyện đồn đại sợ hãi về những chú heo năm móng, ba giò có rất nhiều.
Video đang HOT
Chuyện này bắt đầu bởi một quan niệm mang tính chất tâm linh của người Khmer về những con heo quái thai. Người Khmer tin rằng những con heo có năm móng (năm móng chân, thay vì bốn móng như thông thường – PV) hoặc ba giò (một chân móng đen, một chân móng trắng gọi là heo ba giò – PV) chính là cố tinh của người.
Người ta còn đồn rằng, nếu gia đình nào nuôi phải thì sẽ gặp chuyện lục đục chẳng lành, còn nếu giết heo thì người giết heo, thậm chí cả nhà đó sẽ phải đền mạng. Nhà nào có heo này, muốn bán cũng không có ai mua, cho không ai dám lấy, cứ phải nuôi đến khi nó chết, đem mai táng cẩn thận, thì may ra mới thoát nạn.
Sư phó Tú Linh kể, ngay tại ngôi làng Mahatup, cạnh chùa Mã Tộc, cách đây 10 năm, có một người đàn ông đang ngồi câu, thấy một con heo vừa to vừa béo thủng thẳng tiến lại gần. Chân con heo này đeo một chiếc vòng bạc. Nhìn qua ông này biết con heo là loài quái thai năm móng, được gia chủ đóng cho chiếc vòng bạc, rồi thả rông. Nó cứ lang thang “xin ăn” khắp nơi.
Vốn vô thần vô thánh, lại đang lúc túng đói, ông ta liền dắt heo về chọc tiết. Ăn không hết, ông ta đem ra bán ngoài chợ. Không ai biết đấy là thịt heo năm móng, nhưng chẳng hiểu sao cả buổi chợ hôm đó, không ai tiến lại chỗ ông ta hỏi mua thịt heo.
Ngay đêm hôm đó, ông tự dưng bần thần, đôi mắt từ đờ đẫn chuyển sang dại, rồi điên khùng luôn. Vợ chồng, con cái sinh ra lục đục, đánh nhau chí chóe. Ông này điên khùng một thời gian thì lăn ra chết. Sau vụ ấy, người dân trong làng nhìn thấy heo năm móng hoặc ba giò đi dọc đường là kính cẩn chắp tay hành lễ.
Bà cụ là phật tử quét dọn trong chùa Mã Tộc cũng kể lại một chuyện không kém phần kinh hoàng. Cách đây 7 năm, một ông chủ lò mổ chở đến chùa xác một con heo vừa bị chọc tiết, máu vẫn còn chảy ròng ròng. Ông chủ lò mổ này cùng gia đình vừa khóc vừa lạy, mong nhà chùa hóa giải kiếp nạn vì lỡ mua và giết một con heo 5 móng.
Số là đám thợ mổ của ông không để ý, đến khi chọc tiết, làm lông mới nhìn đến móng chân nó, và đếm thấy có năm móng chứ không phải là bốn móng như thông thường. Nhà chùa lúc đó cũng làm lễ hóa giải. Ông này cũng xây mồ chôn heo tử tế, nhưng rồi ông ta cũng không thoát được sự báo oán của con heo “thành tinh” này. Hiện ông ta bị tâm thần, suốt ngày lang thang ở thành phố Sóc Trăng.
Còn vô vàn chuyện liên quan đến heo năm móng, ba giò báo oán hại người. Có thể những câu chuyện họ kể là thêu dệt, suy diễn, nhưng có một thực tế mà ai cũng lấy làm lạ, đó là người Khmer vùng Sóc Trăng coi loài vật này như ma quỷ hiện hình.
Theo kiến thức
Kỳ bí loài dơi lạ ở Sóc Trăng
Ở đồng bằng sông Cửu Long có một ngôi chùa nổi tiếng nhất, đó là chùa Dơi. Thực tế, ngôi chùa này có tên là Mahatup, sau đọc chệch thành Mã Tộc. Vườn chùa có loài dơi khổng lồ sinh sống, nên gọi là chùa Dơi.
Ngôi chùa cổ
Đồng bằng sông Cửu Long có chừng 600 ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khmer, thì chùa Dơi nổi lên như một quần thể kiến trúc đẹp vào bậc nhất. Ngôi chùa gồm hai cổng, một cổng phụ, một cổng chính. Tuy nhiên, lạ ở chỗ cổng chính được trang trí khá đơn giản, còn cổng phụ, nhìn từ xa, thấy rực màu vàng óng, còn lại gần, du khách phải thót tim bởi hình hai con rắn khổng lồ gác hai bên cổng, mỗi con có 5 đầu, đang phồng mang trợn mắt như chực đớp người.
Cổng chùa Dơi.
Ngôi chùa chính cũng là một kiệt tác. Mái chùa gồm hai tầng lớp ngói mầu. Phía đầu hồi, bốn đầu mái được chạm trổ tinh xảo hình rắn Naga cong vút. Trên đỉnh chùa có một ngọn tháp nhọn.
Hàng cột đỡ bao quanh chùa, mỗi cột có một tượng tiên nữ Kemnar, đôi tay chắp trước ngực như đang cất lời đón chào khách thăm viếng. Khắp trên tường chùa là những bức tranh khổ lớn miêu tả cuộc đời Đức Phật, từ lúc ra đời tới khi được khai minh rồi nhập Niết bàn.
Dơi bay đầy trời ( Hình chụp lại từ chùa Dơi)
Bên cạnh còn có một pho tượng sinh động miêu tả Đức Phật cưỡi trên rắn thần Muchalinda. Trong khu vườn rộng khoảng 7ha còn có nhiều bảo tháp (stupa) chứa di hài các nhà sư quá cố, có lò hỏa táng, nhà ở của các sư và nhà hội Sa La như kiểu nhà rông hay hội trường...
Sư phó Lâm Tú Linh dù rất bận mải với việc khôi phục ngôi chánh điện bị cháy, nhưng khi trò chuyện về đàn dơi, sư rất nhiệt tình. Sư phó Linh dẫn tôi dạo mát dưới khu vườn rộng mênh mông với vô vàn các loại cây cổ thụ xen lẫn những loại cây ăn quả như xoài, vú sữa, sầu riêng, măng cụt.
Hình chụp lại từ chùa Dơi.
Chùa Dơi được xây dựng từ năm 1569, trên một bãi cát hoang hóa do biển bồi. Vị sư trụ trì đầu tiên, sau khi dựng ngôi chùa nhỏ bằng gỗ, liền trồng một vườn cây để chắn gió biển. Khi vườn cây xanh tốt, các loại chim muông liền kéo về, nhiều nhất là cò, cồng cộc, điên điển, quạ, dơi... sống chung với các nhà sư. Sư phó Lâm Tú Linh bảo: "Không hiểu sao, Sóc Trăng có tới hàng trăm ngôi chùa và rất nhiều chùa có cảnh đẹp thanh tịnh, vườn cây bóng mát, nhưng chỉ chùa Mã Tộc là có nhiều loài chim tụ họp, đặc biệt là dơi. Tôi nghĩ rằng chùa Mã Tộc là nơi đất lành nên có nhiều chim về đậu, đúng như điều tiền nhân thường nói".
Để chứng minh chùa Mã Tộc là mảnh đất lành, Sư phó Linh dẫn tôi đi xem rất nhiều giếng nước trong chùa rồi bảo rằng, đào xuống lòng đất, chỗ nào cũng thấy có nước ngọt, trong vắt, múc lên là dùng ngay được. Thế nhưng, dân cư sống quanh chùa lại không thể dùng được nước ngầm, vì nước nhiễm phèn cực nặng. Tôi thấy hàng chục cái giếng trong chùa, cái nào cũng có rất nhiều ống nhựa chọc xuống. Nhân dân quanh vùng đều nối ống vào chùa để bơm nước về dùng. Nhà chùa lúc nào cũng rộng lòng với chúng sinh, nên không tiếc gì nước, nhân dân cứ bơm thoải mái.
Phận hẩm của dơi
Đứng dưới gốc cây cổ thụ, ngửa mặt lên trời nhìn bọn dơi treo mình lủng lẳng trên cành, Sư phó Linh lại thở dài thườn thượt.
Ngày nào Sư phó cũng ra vườn dơi ngắm nhìn chúng, rồi lại thở dài luyến tiếc, vì mỗi ngày sư cảm nhận rõ sự hao hụt số lượng. Cách đây độ chục năm, dơi đậu trong chùa nhiều vô kể. Chúng đậu khắp các cành cây trong vườn, tràn cả ra ngoài cổng, thậm chí trên nóc chánh điện còn thấy khối đen lủng lẳng.
Số lượng dơi mỗi ngày một ít.
Một cụ bà vãng chùa cho biết: "Không biết dơi có từ bao giờ nhưng từ nhỏ tôi đã thấy dơi... Mỗi khi đàn dơi bay về, chúng tạo ra những đám mây kéo dài hồi lâu mới hết... Cây xanh trải dài, cành lá sum suê là thế, nhưng mỗi khi đàn dơi tề tựu về thì nhìn lên chẳng thấy lá đâu, chỉ thấy một màu đen kịt của dơi". Nhưng có một điều lạ, nhiều cây cổ thụ tán rộng lòa xòa của nhà dân, ngả hết cả sang đất chùa, chúng lại không bao giờ đậu.
Những buổi trưa nóng nực, chúng vỗ cánh phành phạch, náo động cả chùa. Điều lạ nữa, chúng chỉ "bậy" ra khu vườn, cách rất xa chùa, chứ không bao giờ "bậy" luôn ra chùa cả. Tình trạng ô nhiễm do phân dơi cũng không xảy ra, vì sáng nào nhân dân quanh vùng cũng kéo đến dọn phân dơi về làm phân bón. Phân dơi cực tốt với các loài cây ăn quả, nên lúc nào cũng "đắt hàng".
Tuy nhiên, giờ đây, muốn được hàng ngày dọn phân dơi cũng không được, vì đàn dơi cứ teo dần, rồi giờ chỉ còn chon hỏn một nhúm độ vài ngàn con, treo ở vài cây cổ thụ giữa chùa. Khách tham quan về thăm chùa Dơi, đều ra ngắm đàn dơi với con mắt hau háu. Nhiều ông sành nhậu, trót ngắm đàn dơi rồi, chỉ muốn thưởng thức xem thịt nó ra sao. Vậy là những quán thịt dơi mọc lên khắp thành phố Sóc Trăng.
Nhà chùa kêu cứu nhiều quá, các cơ quan chức năng vào cuộc, cấm các nhà hàng kinh doanh món thịt dơi. Nhưng nếu họ cứ hoạt động lén lút thì cũng chịu. Mà cấm ở Sóc Trăng, thì các quán nhậu thịt dơi ở Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh lại mọc lên nhan nhản. Dân nhậu có thể tha hồ chỉ mặt những con dơi đang nằm trong lồng, rồi ngồi chờ nhà hàng làm thịt.
Họ nhồm nhoàm nhai và khen vừa ngon, vừa bổ, nhưng ở ngôi chùa kia, các nhà sư trông đàn dơi mỗi ngày teo đi, họ đau cứ cơ thể mình đang bị ngặm nhấm vậy. Cứ đà này, chẳng mấy chốc đàn dơi sẽ biến mất và cả ngôi chùa nổi tiếng, độc đáo nhất cả nước này cũng sẽ bị quên lãng.
Dơi đậu đầy cành cây.
Loài dơi bí ẩn
Theo Sư phó Tú Linh, hầu như các nhà khoa học chưa có nghiên cứu gì về loài dơi độc đáo, chỉ có duy nhất ở chùa Mã Tộc này. Chỉ có một nhà khoa học, cách đây vài năm, qua chùa, sau khi ngắm nghía, chỉ để lại một thông tin duy nhất cho các nhà sư: Đây là loài dơi quạ, là loài cực kỳ hiếm.
Có phải là dơi quạ?
Hiếm và quý thì nhà chùa biết cả rồi, nhưng làm sao để bảo vệ được chúng mới là điều cần thiết nhất. Có phải là dơi quạ? Có lẽ loài dơi ở chùa Mã Tộc là loài lớn nhất nước ta. Con dơi mới đẻ đã có sải cánh dài tới 50cm. Dơi trưởng thành sải cánh dài khoảng 1,5m, nặng 1kg. Một số con dơi chúa rất lớn, nặng tới 1,5kg và sải cánh của nó đến 2m.
Những con dơi chúa bay dập dìu trên trời lúc nhập nhoạng tối trông như những bóng ma. Loài dơi này mỗi năm chỉ đẻ một lứa và đẻ duy nhất một con vào mùa mưa tháng 6. Chúng không làm tổ, nên đẻ xong thì cứ ôm con suốt ngày đêm.
Khoảng 3-4 tháng ôm con như vậy, lúc con biết bay, thì tự đi kiếm ăn. Cứ đến mùa sinh sản và nuôi con, các nhà sư lại phải thay nhau trông nom và chăm sóc đàn dơi như chăm bà đẻ. Đàn dơi trong chùa tin người đến tồ tệch. Chúng cứ để con mình tập bay rất vô tư, rớt xuống đất cũng không sợ, vì đã có các nhà sư chăm sóc giúp.
Giống dơi này không có chân, chỉ có những cái móng ở cánh, dùng để móc vào thân cây, do đó, khi rớt xuống đất, cánh lại dài, không đó đà, nên không thể bay lên được. Đến mùa tập bay, tí lại thấy một chú rơi "độp" xuống đất. Các nhà sư lại phải nhẹ nhàng bế chúng lên vuốt ve, rồi đặt lên cành cây để mẹ nó xuống nhận con.
Giống dơi không bao giờ nhận lầm con. Nhiều lần giông gió nổi lên, đàn con rơi xõng xoài khắp mặt đất. Các sư phải mang chúng vào chùa. Sấm chớp qua rồi, các nhà sư lại mang ra treo từng con một lên cành cây. Đám dơi mẹ sà xuống ngó nghiêng lần lượt để nhận con.
Điều lạ là cả trăm cặp mẫu tử nhận lại nhau mà không hề có chuyện nhận nhầm hoặc tranh chấp nào cả. Tuy nhiên, nhiều lần, sau những đêm dơi con ở nhà tập bay, bị rơi xuống đất, mẹ chúng không về được bởi đã sa vào lưới của đám thợ săn, thì các nhà sư phải làm mẹ chúng, cho chúng uống sữa bò, rồi bón cho chúng ăn hoa quả, dạy chúng tập bay.
Và cũng có một chuyện rất lạ, đó là giống dơi ở đây chỉ chấp nhận sự chăm sóc của các nhà sư. Khách du lịch viếng thăm chùa, trông cảnh nhà sư cho dơi ăn, tung dơi lên trời ở ngoài sân chùa cho chúng tập bay, cũng muốn giúp các nhà sư và làm quen với bọn dơi, nhưng không được.
Giống dơi này có thể nép mình vào vai và dụi đầu vào má các nhà sư, nhưng hễ người lạ đến gần là chúng trở nên rất hung dữ, cào cắn rách cả thịt. Sư phó Tú Linh sau mấy chục năm sống chung với đàn dơi bảo rằng, dường như bản năng của loài dơi, từ lúc sinh ra đã thân thiết với các nhà sư trong chùa rồi.Giống dơi trong chùa Mã Tộc này là giống dơi ăn quả. Chúng chỉ ăn hoa quả và uống nước từ các trái dừa. Răng chúng sắc đến nỗi, chỉ cắn một lát đã thủng quả dừa.
Tuy nhiên, điều rất lạ là chúng không bao giờ ăn, dù chỉ một trái cây trong vườn chùa, mặc dù trong vườn chùa trồng hàng chục loại cây ăn quả và quanh năm hoa trái sai trĩu trịt. Với các nhà khoa học, để lý giải được điều này quả không hề dễ dàng.
Ngày nào cũng vậy, cứ đúng 6h30 tối, đàn dơi bay lên ríu rít gọi nhau, lượn qua lượn lại mấy vòng, rồi từ giã chùa đi kiếm ăn. Chúng đi ăn rất xa, khắp các miệt vườn dọc sông Tiền, sông Hậu. Và rồi, như công thức, đúng 4h sáng đã có mặt đầy đủ ở chùa. Con nào vắng mặt, coi như đã sa bẫy.
Loài dơi ở đây rất thông minh, nhưng chúng thường sa bẫy vì đạo nghĩa. Đám săn dơi thường nhốt một vài con dơi trên cây làm mồi nhử. Đàn dơi bay qua, thấy bạn đang kêu cứu, liền sà xuống cứu. Thế nhưng, bạn không cứu được, mà mình bị mắc lưới và trở thành mồi nhậu.
Theo VTC News
Kinh hãi: Mưa... xương sọ Người dân vùng Whitby, Vương Quốc Anh được một phen hốt hoảng trước cơn mưa xương này. Trong tiểu thuyết Dracula của nhà văn nổi tiếng Bram Stoker, ông đã đề cập đến nhà thờ vùng Whitby như một nơi ở của bá tước. Điều này đã thu hút rất nhiều khách du lịch tới vùng này và góp phần phát triển kinh...