Rối loạn cương, dấu hiệu của bệnh tim mạch?
Hiện nay người ta có nhiều cơ sở khoa học chứng minh rằng rối l.oạn c.ương d.ương không chỉ là vấn đề t.ình d.ục, mà còn là triệu chứng chỉ điểm của bệnh tim mạch. Điều trị rối l.oạn c.ương d.ương có tác dụng phòng ngừa bệnh tim mạch.
ảnh minh họa
Bệnh tim mạch gây rối loạn cương?
Video đang HOT
Nếu như trước đây hầu hết các trường hợp rối l.oạn c.ương d.ương đều được quy cho các bệnh lý tâm thần, t.ình d.ục thì hiện nay các nghiên cứu đã cho thấy sự liên hệ giữa rối l.oạn c.ương d.ương và các bệnh tim mạch. Các yếu tố như t.uổi tác, tăng huyết áp, tiểu đường, tăng cholesterol m.áu, nồng độ HDL-cholesterol trong m.áu hạ, nghiện t.huốc l.á đều ảnh hưởng đến khả năng cương.
Mối liên hệ giữa rối l.oạn c.ương d.ương và các bệnh tim mạch là rối loạn nội mô. Bình thường nội mô điều hòa các chức năng sinh lý như trương lực mạch m.áu, khả năng kết dính tiểu cầu, sự đông m.áu, phản ứng viêm, tính thấm tế bào. Nội mô điều khiển việc tiết các chất trung gian tại chỗ để điều hòa sự tưới m.áu cho mô một cách thích đáng. Chất oxyde nitrique (NO) là một trong những chất trung gian quan trọng nhất có một vai trò chống vữa xơ động mạch do tác dụng giãn mạch mạnh và ức chế sự dính kết tiểu cầu. Đối với d.ương v.ật, NO có một vai trò sinh lý quan trọng làm giãn mạch m.áu và gây cương cứng. Vì vậy, một khi cơ thể sản xuất không đầy đủ NO hoặc hoạt tính bị giảm sẽ gây rối l.oạn c.ương d.ương và những bệnh lý tim mạch.
Người ta nghiên cứu chức năng nội mô bằng cách đo sự giãn của các động mạch cánh tay nhờ máy đo huyết áp. Sự đáp ứng động mạch đối với sự thiếu m.áu tạm thời gây nên một sự giãn mạch thứ phát. Những bệnh nhân bất lực nhưng không có yếu tố nguy cơ tim mạch cũng như các triệu chứng tim mạch, phần lớn đều có một thiếu sót trong sự giãn của những động mạch cánh tay. Tương tự, việc định lượng chất CRP- chỉ dấu của tổn thương nội mô cũng cho thấy: chất CRP tăng cao ở bệnh nhân bất lực mà không có những biểu hiện tim mạch. Loạn năng nội mô là nguyên nhân gây ra chứng vữa xơ động mạch, do đó loạn năng cương là một dấu hiệu sớm của bệnh mạch m.áu nhưng chưa có triệu chứng.
Một công trình nghiên cứu đã so sánh hai nhóm : nhóm một là 70 bệnh nhân rối l.oạn c.ương d.ương nhưng không có t.iền sử về các bệnh tim mạch; nhóm hai là 73 người lành mạnh. Kết quả cho thấy nhóm một có nồng độ chất CRP trong m.áu tăng cao, giảm giãn mạch của động mạch cánh tay, bị vôi hóa động mạch vành nhiều hơn so với nhóm hai. Qua đó các nhà nghiên cứu đưa đến kết luận rằng: chứng rối l.oạn c.ương d.ương là dấu hiệu báo trước bệnh tim mạch chưa được biểu hiện bằng những triệu chứng lâm sàng; bệnh tim mạch trầm trọng hơn ở những người bị rối l.oạn c.ương d.ương.
Trong công trình nghiên cứu khác, thực hiện trên 300 bệnh nhân có các bệnh tim mạch, cho thấy hầu hết những bệnh nhân này có bị rối l.oạn c.ương d.ương trước 3 năm rồi mới xuất hiện triệu chứng đầu tiên của một bệnh lý tim mạch. Mặt khác chứng rối l.oạn c.ương d.ương càng nặng khi số các động mạch vành bị hẹp càng nhiều.
Một nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ người bị rối loạn dương cương từ 19% – 52% và tăng dần theo t.uổi tác. Trên thế giới có gần 150 triệu người bị bệnh, trong đó Mỹ có 30 triệu người. Tỷ lệ rối loạn cương tăng 1,5 lần ở người tăng huyết áp, tăng gấp đôi ở người có tăng cholesterol m.áu hay nghiện t.huốc l.á, tăng gấp 3 ở bệnh nhân tiểu đường, chiếm 44%-65% ở bệnh động mạch vành, 86% ở bệnh nhân vữa xơ động mạch, và tỷ lệ này là 87% ở bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên.
Tại sao rối loạn cương lại biểu hiện sớm nhất ở bệnh tim mạch?
Sở dĩ chứng rối loạn cương biểu hiện sớm hơn là do “cỡ động mạch” của d.ương v.ật nhỏ hơn động mạch vành. Các động mạch d.ương v.ật có đường kính chỉ nhỏ hơn 1-2mm, trong khi các động mạch vành đường kính 3-4mm, đường kính động mạch cảnh 5-7mm. Vì vậy một mảng vữa xơ động mạch sẽ gây nên mức độ tắc khác nhau ở các cơ quan tùy theo đường kính của động mạch bị thương tổn tại cơ quan đó. Theo đó sự giảm luồng m.áu trong một động mạch nhỏ sẽ có triệu chứng lâm sàng sớm hơn trong một động mạch lớn (sẽ còn im lặng chưa có triệu chứng). Các nhà khoa học ước tính rằng phải giảm khoảng 40% đường kính động mạch thì các triệu chứng mới được thể hiện. Vì lẽ đó sự bất lực t.ình d.ục biểu hiện trước một thời gian khá dài so với nhồi m.áu cơ tim hay một tai biến mạch m.áu não.
Thái độ xử lý đúng với một bệnh nhân rối loạn cương
Những người đàn ông đến khám vì bị chứng rối loạn cương phải được thăm dò một cách hệ thống để tìm kiếm những yếu tố nguy cơ tim mạch, nhất là bệnh đái tháo đường và những dấu hiệu của bệnh tim mạch đi kèm. Họ cần phải được điều trị phòng ngừa để tránh những tai biến mạch m.áu nghiêm trọng gây tàn phế hoặc t.ử v.ong như tai biến mạch m.áu não, nhồi m.áu cơ tim. Những công trình nghiên cứu trên động vật đã cho thấy rằng việc sử dụng hàng ngày các thuốc inhibiteur de PDE5, có thể phục hồi chức năng nội mô. Những bệnh nhân được điều trị bởi các thuốc inhibiteur de PDE5 để cái thiện chức năng cương ít bị nhồi m.áu cơ tim hơn so với bệnh nhân không được điều trị.
Theo VNE