Rau má – Đói ăn rau, đau uống thuốc
Trong cuộc sống hàng ngày ít ai biết được rằng: Rau má – thứ rau mà nhiều người vẫn coi là loài rau mọc hoang dã nơi gốc ruộng, bờ đường ấy lại là một dược thảo rất quý, chữa được nhiều bệnh khá hữu hiệu…
Rau má không chỉ là một loại rau quen thuộc với người dân đất Việt, đặc biệt là với những người nông dân, mà nó còn là một dược thảo. Trong dân gian Rau má được dùng để chữa một số chứng bệnh thông thường rất hiệu nghiệm. Theo các sách thuốc cổ như: Bản thảo cương mục, Dược tính luận, Nam dược thần hiệu thì Rau má có vị đắng, tính hàn, vào 3 kinh can, tỳ và thận, có công dụng thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu thũng giải độc, dùng chữa các chứng tiết tả mùa hè, bịnh lỵ, vàng da do thấp nhiệt, sỏi đường tiết niệu, bỏng, khái huyết, thổ huyết, đau mắt đỏ, dị ứng, mẩn ngứa…
Dược lý học hiện đại nghiên cứu cho thấy: Rau má có chứa glucorit như asiaticoside cenlelloside các saponin như Brahmic axit, madasiatic axit và một số chất khác như carotrnoids, meso… insositol. Nghiên cứu thực nghiệm trên chuột bạch, chuột cống, các nhà khoa học nhận thấy Rau má có tác dụng trấn tĩnh, an thần thông qua cơ chế tác động trực tiếp lên hệ thống thần kinh trung ương. Rau má có tác dụng điều trị các vết ở da và niêm mạc là do các saponin chứa trong dịch chiết có tác dụng kích thích quá trình sinh trưởng của tế bào da, làm tăng sinh mạng lưới huyết quản của tổ chức liên kết giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng khiến vết thương mau lành. Kết quả này thu được từ những nghiên cứu dùng dịch Rau má tiêm (chích) bắp hoặc dưới da cho các động vật thí nghiệm như chuột, thỏ. Mặt khác, Rau má còn có tác dụng kháng khuẩn rõ rệt, làm giảm trương lực cơ trơn ở ruột (chống co thắt), hưng phấn nhẹ hô hấp và hạ huyết áp. Trên lâm sàng, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy bột Rau má khô uống với liều 3 lần trong một ngày, mỗi lần 5 – 7g có tác dụng giảm đau khá tốt.
Trong dân gian, Rau má được dùng để chữa một số bệnh:
@ Vàng da do thấp nhiệt: Rau má 30 – 40g, Đường phèn 30g sắc uống.
Video đang HOT
@ Đi lỏng do trúng thực: Rau má 30g sắc với nước vo gạo uống hàng ngày.
@ Đái ra máu: Rau má và Ích mẫu thảo mỗi thứ một nắm rửa sạch, giã nát vắt lấy nước uống.
@ Táo bón: Rau má 30g giã nát đắp rốn.
@ Bệnh sởi: Rau má 30 – 40g sắc uống.
@ Áp xe vú giai đoạn đầu: Rau má tươi 30 – 70g sắc uống hoặc giã nát ép lấy nước uống.
@ Giải ngộ độc thuốc và thực phẩm: Rau má tươi giã nát ép lấy nước uống (có thể thêm một chút Đường phèn).
@ Hành kinh đau bụng đau lưng: Rau má khô tán bột mỗi ngày uống 2 thìa cà phê gạt ngang.
@ Giải nhiệt, trị rôm sẩy, mẩn ngứa, mát gan, lợi tiểu: Rau má tươi 30 – 100g rửa sạch, giã nát vắt lấy nước uống hàng ngày hoặc dùng máy xay sinh tố xay nát rồi hoà đường uống.
Đối với bệnh nhân viêm gan virút cấp tính dùng 150g Rau má tươi sắc với 500ml nước cô còn 250ml, pha thêm Đường phèn chia uống 2 lần trong ngày khi đói bụng. Ngoài ra Rau má còn được dùng điều trị các bệnh nhiễm khuẩn màng não – tuỷ.
Ở nước ta Rau má mới chỉ được nghiên cứu trong điều trị các bệnh lý ngoài da, đặc biệt là bỏng. Theo cổ nhân, Rau má có tính lạnh nên những người hư hàn không nên dùng.
Theo SKDS
Lu lu đực - Giải độc, tiêu thũng
Lu lu đực còn gọi là nụ áo, thù lu đực, cà đen, long quỳ. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây phơi hay sấy khô hoặc ngọn non làm thức ăn. Theo Đông y, lu lu đực có vị đắng, hơi ngọt, tính hàn, có độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, tan ứ huyết, tiêu viêm, tiêu thũng. Dùng chữa cảm sốt, viêm phế quản, nhiễm khuẩn hô hấp, viêm họng, viêm đường tiết niệu, viêm thận cấp, viêm tuyến tiền liệt, tiểu tiện khó khăn vảy nến, lở loét ngoài da, bỏng, vết sưng tấy, chín mé. Liều dùng: 10 - 15g dạng thuốc sắc.
Một số cách dùng lu lu đực chữa bệnh:
Chữa tiểu tiện không thông, phù thũng, gan to: lu lu đực 40g, mộc thông 20g, rau mùi 20g. Sắc uống. Có thể dùng toàn cây rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống hoặc ngọn non 50g - 100g luộc ăn trong ngày.
Chữa sốt: bột rễ lu lu đực 100g, bột rễ ké hoa vàng 100g, hạt tiêu đen 2,5g. Làm thuốc bột. Mỗi lần uống 3 - 5g.
Chữa viêm phế quản cấp, viêm họng: lu lu đực 30g, cát cánh 10g, cam thảo 4g. Sắc uống.
Chữa bệnh ngoài da (mẩn ngứa, lở loét, bỏng, vảy nến): ngọn non hoặc lá, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước bôi. Hoặc dùng toàn cây, nấu lấy nước, cô thành cao mềm (cao long quỳ) để bôi chữa vảy nến hay trĩ.
Chữa vết thương đụng giập, sưng tấy, ứ máu, đau nhức: giã nát 80 - 100g cây tươi, thêm ít giấm, ép lấy nước để uống, bã đắp chỗ đau.
Lưu ý: Do toàn cây có chất độc, đặc biệt quả, nên khi dùng phải thận trọng.
Theo SK&ĐS
Thuốc tiêu độc có thể gây họa Thuốc, thực phẩm chức năng từ thảo dược được quảng cáo có tác dụng thanh nhiệt, tiêu độc... nhưng lại không đáp ứng với các bệnh dị ứng. Hiện nay, trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các loại thuốc và thực phẩm chức năng được quảng cáo có nguồn gốc thảo dược có tác dụng thanh nhiệt, tiêu độc, thải độc...