Rào cản phục hồi
Khi thế giới hy vọng sẽ sớm phục hồi sau đại dịch, không ít người dự báo, Đông Nam Á sẽ nhanh chóng trở lại mức tăng trưởng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, triển vọng này đang bị “bủa vây” bởi sự không chắc chắn.
Bởi, bằng chứng rõ ràng là không ít quốc gia Đông Nam Á đã dồn toàn lực vào việc kiểm soát virus, hạn chế thiệt hại về kinh tế. Tuy nhiên, cách chống dịch của Indonesia và Philippines được coi là “bài học”.
Bởi lẽ, Chính phủ Indonesia chỉ áp đặt các hạn chế về khoảng cách xã hội muộn màng. Do không thể ngăn chặn virus, sự phục hồi kinh tế của quốc gia này được cho là rất yếu.
Trong khi đó, Philippines nổi bật là đã trải qua điều tồi tệ nhất khi quyết định phong toả, nhưng vẫn không kiểm soát được sự lây lan của virus.
Video đang HOT
Mức tăng trưởng của nền kinh tế Philippines đã giảm 14% trong quý 2/2020. Con số này khiến Philippines là một trong những nền kinh tế yếu kém nhất toàn cầu.
Bên cạnh đó, yếu tố khác hình thành nên cuộc khủng hoảng của Đông Nam Á là vai trò của thương mại quốc tế. Thương mại toàn cầu đã tăng trưởng tốt một cách đáng ngạc nhiên và điều này đặc biệt có lợi cho Đông Nam Á với tư cách là khu vực tập trung vào thương mại.
Mặc dù thương mại dẫn đến sự suy thoái toàn cầu, nhưng nó cũng đã dẫn đầu sự phục hồi. Nhu cầu tăng đột biến đối với thiết bị bảo hộ, thiết bị điện tử và các sản phẩm khác cũng đặc biệt hữu ích cho ngành xuất khẩu của Đông Nam Á. Tuy nhiên, giữa năm 2020, xuất khẩu hàng hóa của khu vực đã giảm gần 1/5.
Trong bối cảnh đại dịch bùng phát, nền kinh tế Đông Nam Á rơi vào khủng hoảng bởi khả năng đáp ứng của chính sách kinh tế vĩ mô. Hầu hết chính phủ các quốc gia trong khu vực đã có thể dự đoán rằng, họ không thể phù hợp với mức mở rộng tài chính của các đối tác phương Tây.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa ở Đông Nam Á vẫn rất mở rộng. Điều này đóng một vai trò quan trọng trong việc hạn chế sự suy thoái kinh tế và xã hội do đại dịch.
Trong khi bản chất của cuộc khủng hoảng đòi hỏi chính sách tài khóa phải đóng vai trò chủ đạo, hành động của một số ngân hàng trung ương trong khu vực cũng rất quan trọng, đáng chú ý nhất là Indonesia và Philippines.
Các ngân hàng trung ương ở cả hai quốc gia đã tiến tới không chỉ mua một lượng đáng kể trái phiếu chính phủ trong nước trên thị trường thứ cấp, mà còn tài trợ trực tiếp cho một phần lớn thâm hụt ngân sách của chính phủ.
Đây là một yếu tố thay đổi cuộc chơi trong khủng hoảng, với mục đích ổn định thị trường trái phiếu. Bên cạnh đó, biện pháp này cũng nhằm bảo đảm rằng, các khoản thâm hụt ngân sách lớn do khủng hoảng gây ra có thể được bù đắp bởi nguồn tài trợ.
Song, sau tất cả, sự phục hồi ở từng quốc gia sẽ chưa thể hoàn thiện, chừng nào đại dịch chưa được kiểm soát. Đáng lo ngại, tình trạng lây lan của virus vẫn tiếp tục ở Indonesia, Philippines và Malaysia…
Trong khi đó, các biến thể mới của Covid-19 ngày càng nguy hiểm và là một mối đe dọa đối với việc triển khai tiêm vắc-xin. Không ít chuyên gia dự đoán, tiến độ tiêm vắc-xin ngừa Covid-19 ở một số quốc gia Đông Nam Á có nguy cơ chậm hơn kế hoạch.
Indonesia cảnh báo nguy cơ động đất lớn và sóng thần
Cơ quan Khí tượng, khí hậu và địa vật lý Indonesia (BMKG) đã ghi nhận sự gia tăng các hoạt động địa chấn ở khu vực phía Nam của tỉnh Đông Java trong 5 năm qua. Điều này có thể kích hoạt nguy cơ xảy ra một trận động đất lớn hoặc thậm chí là sóng thần.
Cảnh tàn phá sau thảm họa sóng thần tại Pandeglang, tỉnh Banten, Indonesia ngày 23/12/2018. Ảnh tư liệu: THX/TTXVN
Theo phóng viên TTXVN tại Jakarta, ngày 5/3, truyền thông địa phương dẫn lời người đứng đầu BMKG - bà Dwikorita Karnawati - cho biết mọi người dân cần nhận thức được nguy cơ và rủi ro của trận động đất mạnh nói trên. Các cơ quan chức năng cần cân nhắc dự phòng các tuyến đường sơ tán đến các khu vực an toàn hơn, nhất là các khu vực có độ cao lớn.
Bà Dwikorita nhấn mạnh dựa trên phân tích của BMKG, nguy cơ xấu nhất có thể xảy ra một trận động đất có độ lớn 8,7 và sóng thần ở phía Nam của tỉnh Đông Java. Xuất phát từ nguy cơ này, BMKG đã đề nghị các chính quyền địa phương tăng cường khả năng ứng phó với thiên tai.
Mới đây, Bộ Giao thông Vận tải Indonesia đặt mục tiêu lắp đặt thêm 100 hệ thống cảnh báo động đất, sóng thần thế hệ mới (WRSnGen) trong năm nay. Hiện WRSnGen đã được lắp đặt tại 316 địa điểm trên toàn quốc. Ngoài ra, Chính phủ Indonesia còn lắp đặt 23 hệ thống kiểm soát lưu thông trên biển (VTS) trên cả nước. Các hệ thống này được tích hợp với cảm biến WRSnGen ở tất cả các địa điểm dễ bị sóng thần tấn công.
Hệ thống cảnh báo sớm là một nỗ lực nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro cũng như lên kế hoạch khẩn cấp trong vận tải đường biển. Chính phủ Indonesia ưu tiên bố trí hệ thống phát hiện sớm tại Teluk Bayur, Bakauheni, Gilimanuk, Padangbai và Ambon. Tất cả các hệ thống này có thể được giám sát thông qua Trung tâm Chỉ huy hàng hải (MCC).
Nằm trên "Vành đai lửa" Thái Bình Dương với hơn 17.500 hòn đảo, Indonesia thường xuyên hứng chịu nhiều trận động đất, trong đó trận động đất có độ lớn 9,1 hồi tháng 12/2004 đã làm rung chuyển bờ biển Sumatra, gây ra sóng thần trên khắp Ấn Độ Dương và khiến 220.000 người thiệt mạng.
Theo Cơ quan Quản lý Thảm họa Quốc gia Indonesia (BNPB), quốc gia này đã ghi nhận 3.253 thảm họa thiên tai trong khoảng thời gian từ tháng 2/2020 đến cuối tháng 2/2021, gây thiệt hại 28.800 tỷ rupiah (hơn 2 tỷ USD).
Các số liệu của BNPB cho thấy mỗi ngày Indonesia hứng chịu ít nhất 9 thảm họa thiên tai, từ động đất, sóng thần, núi lửa phun, cháy rừng và đất than bùn, đến lũ quét, sạt lở đất và lốc xoáy. Trong 10 năm qua, trung bình mỗi năm Indonesia ghi nhận 1.183 người thiệt mạng do các thảm họa thiên tai.
Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cho thấy Indonesia là một trong 35 quốc gia bị ảnh hưởng thiên tai nặng nề nhất.
Khi con người gắn bó với hệ sinh thái rừng Sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, các nhà khoa học đã cảnh báo rằng đây là hệ lụy của tình trạng phá rừng - môi trường sống của các loài động, thực vật hoang dã. Một khoảng rừng Amazon ở bang Rondonia, miền Bắc Brazil bị tàn phá, ngày 23/8/2019. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN Tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên...