[Quy tắc đầu tư vàng] Đầu cơ không xấu, vấn đề là bạn quản lý nó như thế nào
John Arnold một thiên tài đầu cơ trong lĩnh vực năng lượng đã kiếm được hàng tỷ USD nhờ tuân thủ một cách nghiêm túc chiến lược đầu tư của mình.
John Arnold ngồi tại một chiếc bàn hội nghị trong tòa nhà chính phủ ở Washington D.C vào tháng 8/2009, vặn vẹo bàn tay và xoay xoay chiếc nhẫn cưới trong lúc chờ được phát biểu. Liên tục đổ đầy cốc nước trước mặt và uống cạn, sau đó, bằng giọng nói hơi run trước khi lấy lại được bình tĩnh Arnold trình bày một cách lịch sự về những quy tắc cần thiết trong đầu tư.
Nhiều người sẽ nghĩ đây là hình ảnh của một môi giới chứng khoán đang bị điều trần về hành vì làm giá cổ phiếu, nhưng không, đây là một hình ảnh của một ông trùm ngành khí đốt ở tuổi 35, trong phiên điều trần tại Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ (CFTC) về việc liệu có hay không bàn tay của các tay đầu cơ trong việc đẩy giá cả hàng hóa, đặc biệt giá năng lượng.
Arnold bắt đầu sự nghiệp đầu cơ trên thị trường năng lượng từ năm 20 tuổi tại quỹ Enron và rời khỏi nơi này không chỉ với danh tiếng lừng lẫy mà còn cả một số tiền thưởng cực lớn. Từ số vốn đầu tiên chỉ vài chục triệu USD, John Arnold đã thành lập quỹ của riêng mình. Và trong 7 năm kể từ khi đi vào hoạt động, quỹ đầu cơ Centaurus Energy của Arnold đã quản lý hơn 5 tỷ USD giá trị tài sản, và chưa bao giờ kiếm được lợi nhuận ít hơn 50% trong một năm.
Những gì mà Arnold – người được mệnh danh là “thiên tài đầu cơ” – làm được chỉ gói gọn trong ba quy tắc.
1. Đích đến cuối cùng là lợi nhuận
Trên thị trường có nhiều trường phái đầu tư, có những người tôn thờ trường phái đầu tư giá trị, có những người đầu tư theo thông tin, hoặc có những người đầu tư theo biến động ngắn hạn. Nhưng điều quan trọng nhất mà mọi người phải luôn ghi nhớ là dù bạn đầu tư theo phong cách nào thì lợi nhuận mới là thứ để khẳng định phong cách đầu tư của bạn là hợp lý hay không, chứ không phải những lời chỉ trích từ người khác.
Nhiều nhà đầu tư chỉ trích Arnold là nguyên nhân khiến giá các sản phẩm khí đốt bị đẩy lên quá cao, Arnold bảo với mọi người rằng anh ấy chính là một nhà đầu cơ và đấy không phải là điều xấu. Có thể gọi Arnold bằng tên gọi gì cũng được, nhưng không ai có thể kiếm được lợi nhiều hơn Arnold trên sàn giao dịch khí đốt trong giai đoạn trước năm 2010.
2. Tuân thủ kỷ luật
Các tay “thợ săn” cũng đã quá quen với phong cách của Arnold cũng thừa nhận anh có phong thái điềm tĩnh và tính kỷ luật cao. Chính điều này đã giúp anh không bị lệch hướng khỏi mục tiêu khi hầu như cả thị trường đều đi theo hướng ngược lại so với dự đoán của anh.
Video đang HOT
Năm 2006, Amaranth, quỹ đầu cơ năng lượng 9 tỉ USD tại Greenwich, bang Connecticut đã đánh cược rằng giá khí đốt sẽ tăng cao vào mùa đông khi cho rằng thời tiết khắc nhiệt sẽ đẩy nhu cầu sử dụng khí đốt gia tăng. Quỹ đầu cơ của trader “thiên tài” Brian Hunter khi đó là một trong những thế lực lớn trên thị trường năng lượng, những động thái của Amaranth luôn được những quỹ đầu cơ khác dõi theo. Tuy nhiên, bằng những phân tích của mình, Arnold khi đó đã đi ngược số đông khi thực hiện các hợp đồng khí đốt mà sẽ mang lại lợi nhuận lớn nếu giá giảm hơn nữa.
Kết quả là giá khí đốt đã không tăng như dự đoán của số đông thị trường. Trong khi những trader khác hoảng loạn, Arnold vẫn bình tĩnh và kiên nhẫn, chờ đến thời điểm chín muồi và sau đó chớp cơ hội thu lời. Centaurus đã tạo ra tỉ suất lợi nhuận 200% vào mùa thu năm đó, trong khi Amaranth của trader “thiên tài” Brian Hunter đã phải chi tới 3 tỉ USD vào thời điểm đó do thua lỗ trong các hợp đồng swap.
Centaurus đã kiếm được gần 1 tỉ USD đẩy tỉ suất lợi nhuận cả năm 2006 của quỹ lên tới 317%. Ngoài Amaranth, một quỹ đầu cơ khí đốt kỳ cựu khác là MotherRock cũng thua trong canh bạc này.
Lời khuyên ở đây là khi bạn đã tin tưởng vào những dự đoán của mình, hãy tiếp tục kiên định với điều đó. Việc thay đổi không chỉ khiến chiến lược đầu tư bị sai lệch so với ban đầu mà sẽ khiến bạn dễ bị lung lay hơn vào những lần đầu tư sau. Không phải ngẫu nhiên mà kỷ luật thường là một trong những tiêu chí hàng đầu với một nhà đầu tư thành công.
3. Chỉ tập trung vào các cơ hội lớn nhất
Arnold có trí tuệ của một nhà kinh tế và kinh nghiệm của một doanh nhân trong ngành năng lượng. Bên cạnh đó, anh còn hết sức kiên nhẫn và tính toán vô cùng tỉ mỉ nên có thể kiếm được lợi nhuận từ những tình cảnh thảm họa nhất.
Lý thuyết mà “thiên tài đầu cơ” này áp dụng là cố gắng mua nhiều thứ bất cứ khi nào chúng được giao dịch dưới mức giá hợp lý theo phân tích của Arnold, và bán hàng khi nhìn nhận rằng đường cong kỳ hạn đang ở mức cao hơn ngưỡng giá hợp lý. Và một trong những đặc điểm quan trọng của Arnold là thay vì việc đầu tư liên tục, “thiên tài đầu cơ” này chỉ đầu tư 1-2 thương vụ mỗi năm nhưng với quy mô đầu tư rất lớn.
Ban đầu, Arnold chỉ tham gia các hợp đồng mua bán khí đốt vật chất. Nhưng sau đó, Đạo luật Hiện đại hóa Hàng hóa Tương lai (Commodity Futures Modernization Act), được Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 2000, đã cho phép các hợp đồng khí đốt được trao đổi với số lượng lớn, tạo ra cơn sốt trong giao dịch khí đốt qua bảng điện tử. Kinh nghiệm giao dịch buổi đầu của Arnold, vốn cho phép anh nhìn thấu nhu cầu của khách hàng trên khắp đất nước, đã cho anh một lợi thế khi việc giao dịch hàng hóa ảo được Quốc hội Mỹ bật đèn xanh.
Kết hợp sự hiểu biết ấy với các bước đi táo bạo, Arnold đã giúp Centaurus kiếm lợi từ giao dịch khổng lồ. “Arnold chỉ thực hiện 1-2 vụ giao dịch mỗi năm. Nhưng mỗi lần đánh cược, anh ta đánh rất lớn và số tiền kiếm được sau mỗi lần là cả một gia tài”, một người thân cận với quỹ Centaurus tiết lộ. Đó là một chiến lược cực lớn nhưng cũng là một chiến lược mạo hiểm.
Lê Hằng
Theo Trí thức trẻ
[Quy tắc đầu tư vàng] Không sợ lỗ với 8 nguyên tắc giúp đầu tư thành công từ Sir John Templeton
Thị trường đầu cơ sinh ra trong sự ảm đạm, lớn lên bằng sự hoài nghi, phát triển nhờ sự lạc quan và chết bởi sự thỏa mãn...
Sir John Templeton là một trong những nhà đầu tư thành công nhất mọi thời đại. Ông trở thành tỉ phú khi là người tiên phong thực thụ của các quỹ tương hỗ đa dạng hóa toàn cầu, bao gồm cả quỹ Templeton World Fund được lập nên năm 1978. Quỹ Templeton Growth Fund đã thu được tỉ suất lợi nhuận bình quân năm xấp xỉ 14% trong giai đoạn 1954-2004, cao hơn hẳn mức 11% của S&P.
Sinh thời, John Templeton sinh ra trong một gia đình nghèo ở Tennesee. Nhờ học bổng, ông đã theo học kinh tế học ở trường Yale và tốt nghiệp với vị trí đầu lớp năm 1934. Sau đó, ông tiếp tục theo học Oxford bằng học bổng Rhodes Scholar và lấy được bằng thạc sĩ về ngành luật năm 1936. Trở về Mỹ, ông lên New York làm nhân viên tập sự cho Fenner & Beane, một trong các hãng tiền thân của Merrill Lynch.
5 năm sau đó, ông tiến hành mở công ty quản lý đầu tư đầu tiên của chính mình mang tên Templeton - Dobbrow & Vance, trong vũng sâu của cuộc Đại suy thoái năm 1937. Công ty quản lý đầu tư này khá thành công, tài sản tăng lên 300 triệu USD với 8 quỹ tương hỗ dưới sự quản lý của nó. Tên công ty sau đó được đổi thành Templeton Damroth và được bán đi năm 1968, vào thời điểm ông bắt đầu lại từ đầu với quỹ Templeton Growth Fund của chính mình, đặt trụ sở tại Nassau, Bahamas.
Templeton cũng lựa chọn quan điểm tránh xa phố Wall bằng cách đầu tư chủ yếu vào thị trường Anh và Nhật Bản. Chính điều này đã giúp ông trở thành một tỷ phú giàu có và đi đầu xu hướng đầu tư toàn cầu. Cũng nhờ có các nghiên cứu chuyên sâu về thị trường, việc hoạch định tính toán thời gian của ông luôn hoàn hảo đến mức tuyệt đối. Ngay từ giai đoạn đầu tiên của thời kỳ cổ phiếu ngành công nghệ và Internet bùng nổ những năm 1990, Templeton đã có được vị trí đáng kể trên thị trường cổ phiếu của lĩnh vực này và kiếm về cho mình cả một gia tài.
Trong vòng 25 năm sau đó, Templeton đã tạo ra một số trong những quỹ đầu tư quốc tế lớn nhất và thành công nhất. Ông bán lại các quỹ mang tên Templeton năm 1993 cho tập đoàn Franklin Group. Năm 1999, tạp chí Money bầu ông là "người lựa chọn cổ phiếu đầu tư vĩ đại nhất thế kỷ." Templeton còn được Nữ hoàng ElizabethII phong tước hiệp sĩ vì những thành tựu của mình.
Sau khi nghỉ hưu, Templeton trở thành một nhà hoạt động từ thiện rất tích cực trên khắp thế giới qua quỹ John Templeton Foundation. Quỹ đã tài trợ rất nhiều cho các nghiên cứu về tinh thần và khoa học. Mỗi năm ông đều dành tặng khoảng 40 triệu đôla cho các quỹ từ thiện song ông vẫn hết sức tận tụy với năng khiếu thiên bẩm của mình "nghiên cứu về đầu tư chứng khoán".
Là một trong những nhà đầu tư ngược xu thế hàng đầu của thế kỷ XX, John Templeton được giới đầu tư coi là người đã "mua cổ phiếu dưới đáy của cuộc Đại suy thoái, bán ở đỉnh của thời kỳ bùng nổ Internet và có vô số vụ đầu tư thành công khác giữa hai thời kỳ này."
Phong cách đầu tư của ông có thể được tóm tắt là tìm kiếm những cổ phiếu giá trị, mà ông gọi là "săn món hời," bằng cách tìm kiếm trong số nhiều công ty ở nhiều nước khác nhau thay vì chỉ một nước. Châm ngôn đầu tư của Templeton khá đặc biệt " Kiếm tiền bằng mọi giá luôn nhận sự thất bại. Mọi con đuờng dẫn đến thành công cần phải được trải nghiệm và nghiên cứu kỹ lưỡng". Ông cũng cho hay kinh nghiệm và kiến thức là một trong những nhân tố quan trọng nhất để trở thành một nhà đầu tư thành công. Dưới đây là 8 lời khuyên đúc kết dành cho các nhà đầu tư đại chúng mong muốn thành công:
1. Khi đầu tư, bạn cần có hứng thú và đam mê. Nhưng nếu chỉ yêu thích mà không bỏ thời gian nghiên cứu thì bạn sẽ gặp rủi ro.
2. Nếu chỉ là nhà đầu tư nghiệp dư, hãy phát huy những hiểu biết sẵn có để đầu tư vào những công ty uy tín. Đôi khí, lòng tin đầu tư vững vàng sẽ giúp bạn chiến thắng những đối thủ chuyên nghiệp.
3. Không ai có thể đoán trước tương lai, song song với việc dự đoán tình hình kinh tế và thị trường, nhà đầu tư nên tính đến những rủi ro mà cổ phiếu có thể đem lại.
4. Luôn luôn mua cổ phiếu ở một mức biên an toàn (margin of safety). Ai cũng ưa thích việc mua hàng khi đang giảm giá. Hoàn toàn tương tự trong việc mua bán cổ phiếu, nhà đầu tư thông thái luôn là người muốn mua được cổ phiếu ở mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị của nó, thường chỉ xuất hiện khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Mức chênh lệch thấp hơn đó chính là biên an toàn, tức là một khoảng cách an toàn để phòng ngừa rủi ro giá trị nội tại của cổ phiếu bị sụt giảm so với giá trị tại thời điểm nhà đầu tư mua vào. Tùy vào mức độ thận trọng, mỗi nhà đầu tư chấp nhận một mức biên an toàn khác nhau.
5. Quản lý các khoản đầu tư hết sức chặt chẽ. Templeton lưu ý rằng không có cổ phiếu nào có thể giữ vị trí số một mãi mãi. Các thị trường luôn ở trong trạng thái biến đổi liên tục và có thể thay đổi ngay lập tức. Nếu như nhà đầu tư không nhận ra được sự thay đổi, họ sẽ mất tiền.
6.Nhà đầu tư có câu trả lời cho mọi câu hỏi là người không hiểu về câu hỏi. Đừng nên tự tin thái quá khi tham gia thị trường. Theo cách diễn giải của kinh thánh, thất bại sẽ đến sau niềm tự hào. Sự tự tin thái quá trong phong cách đầu tư chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
7.Nếu bạn muốn đầu tư cổ phiếu lâu dài, nhưng không muốn mất thời gian và công sức để có mặt trong những giờ học chứng khoán, bạn có thể đầu tư vào những quỹ có mô hình giống đầu tư chứng khoán, sự rủi ro sẽ ít hơn và thu được lợi nhiều hơn.
8. Cuối cùng, hãy ghi nhớ rằng nên luôn luôn giữ một phần vốn của bạn dưới dạng tiền mặt, không bao giờ nên đầu tư tất cả tiền của bạn vào cổ phiếu.
Lê Hằng
Theo Trí thức trẻ
Chắt lọc 10 bí kíp làm đẹp vòng quanh thế giới Dù ở đâu nàng cũng có thể chọn cho mình những loại "mỹ phẩm" chất lượng mà lại vô cùng tiết kiệm, thậm chí đôi khi số tiền bỏ ra cho những lần làm đẹp ấy chỉ là con số 0. Khi khái niệm làm đẹp tối giản lên ngôi, bí quyết chăm sóc da tự nhiên càng được ưa chuộng và săn...