Quy hoạch, sắp xếp các trường sư phạm: Vấn đề cấp thiết
Chất lượng giáo viên là mối quan tâm hàng đầu của các nhà trường và ngành Giáo dục. Trong quá trình hoạt động và phát triển, đến nay việc đào tạo giáo viên đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia và các nhà giáo dục, cần thiết phải có sự quy hoạch, sắp xếp lại việc đào tạo sư phạm ở các nhà trường cho phù hợp với xu thế và thời đại.
Thi năng khiếu vào Trường CĐSP Trung ương.
Cần có quy hoạch, sắp xếp lại
Theo số liệu thống kê của cơ quan chức năng, trên ca nươc đang co 113 cơ sơ đào tạo giao viên, bao gồm 14 trường đại học sư phạm, 48 trương đại học đa nganh co đào tạo giáo viên (ĐTGV), 30 trường cao đẳng sư pham (CĐSP), 19 trường cao đẳng đa ngành co ĐTGV và 2 trường trung cấp sư phạm. Cùng với đó là 40 trường trung cấp đa ngành đang đào tạo giáo viên mầm non.
Hoạt động ĐTGV của những cơ sở này thời gian qua đã đáp ứng tốt các nhiêm vu từ đao tạo cho đến bồi dương đôi ngu giao viên va can bô quan ly giao duc. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô các cơ sở ĐTGV đến nay đã bộc lộ những hạn chế, không khỏi có những tác động ngược, ảnh hưởng đến chất lượng và quy hoạch chung.
Nhiều chuyên gia và các nhà giáo dục đã chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất là việc phân bố cac cơ sơ ĐTGV quá dàn trải, phân tan và nho le. Thực tế cho thấy có nhiều cơ sơ trên cùng một địa bàn bi trùng lắp về chức năng và nhiệm vụ, dẫn đến cạnh tranh nhau về người học và lãng phí nguồn lực do thu hẹp quy mô đào tạo.
Bên cạnh đó, việc đao tao chưa gắn vơi nhu cầu sư dung, thiếu dự báo nguồn sử dụng từ các địa phương nên dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp sư phạm ra trường làm không đúng ngành hoặc không tìm được việc làm. Đây cũng được coi là căn nguyên chính dẫn đến các trường khó thu hut đươc hoc sinh gioi, co năng lưc phù hợp vao hoc cac trường sư phạm.
Giờ lên lớp của cô trò Trường THCS Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
Video đang HOT
Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đã yêu cầu: “Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Khắc phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo”. Nghị quyết số 19- NQ/TW cũng chỉ rõ: “Đối với giáo dục đại học… không nhất thiết tỉnh nào cũng có trường đại học. Sắp xếp, tổ chức lại, tập trung xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để đào tạo đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục”. Các Nghị quyết đều nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc ĐTGV và vai trò của các trường sư phạm.
NGND Lưu Xuân Giới (Đông Triều, Quảng Ninh)
Huy động các nguồn lực
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo giáo viên là mối quan hệ tương hỗ. Nếu chất lượng đội ngũ không bảo đảm thì khó có thể nói đến nâng chất lượng giáo dục. Những năm gần đây, việc đào tạo giáo viên phổ thông ở một số trường sư phạm đã có những đổi thay tích cực. Nhưng theo các chuyên gia giáo dục, thì vẫn là chu trình “khép kín” trong hệ thống các trường sư phạm.
Thời gian qua Bộ GD&ĐT cho phép một số trường mở các khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm để bổ sung đội ngũ giáo viên từ các nguồn khác. Số này không nhiều, nguồn cung cho các nhà trường vẫn chủ yếu từ các trường sư phạm. Nếu phát huy được nguồn lực từ các trường đào tạo đa ngành khác sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo viên hơn, tính cạnh tranh cao hơn.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần đầu tư nâng cấp một số trường đại học sư phạm trọng điểm để làm chỗ dựa cho việc phát triển khoa học giáo dục, cũng như xây dựng các khoa hoặc bộ môn sư phạm ở các trường đại học đa ngành và đại học kỹ thuật để góp phần đào tạo đội ngũ giáo viên cho các trường phổ thông và các trường dạy nghề.
Chia sẻ điều này, NGƯT Vũ Liên Oanh – nguyên Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Quảng Ninh, cho rằng: Đây là quan điểm hoàn toàn hợp lý vì nếu chúng ta tạo được một hệ thống mở trong đào tạo giáo viên sẽ ít nhiều giúp nghề sư phạm rộng cửa, trở nên hấp dẫn hơn và hơn thế, thu hút được các cử nhân ngoài sư phạm. Tất nhiên, việc phải qua một khóa đào tạo sư phạm là phải có. Nhưng thu hút nguồn lực chất lượng ngoài trường sư phạm chắc chắn sẽ giúp giải được bài toán nâng cao chất lượng giáo viên trong các nhà trường phổ thông.
Khẳng định sự cần thiết phải linh hoạt trong đào tạo, NGƯT Đặng Lộc Thọ, nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương, cho rằng: Nhân lực ngành sư phạm có những đặc thù so với các ngành nghề khác. Thực tế cho thấy việc đào tạo giáo viên theo phương thức truyền thống (mô hình khép kín) có một số hạn chế. Theo mô hình đào tạo này, khi thừa giáo viên thì sẽ rất khó giúp họ chuyển đổi nghề nghiệp; nó cũng bộc lộ hạn chế là các trường đại học sẽ gặp khó khăn khi có hiện tượng thừa giáo viên.
Vì lúc đó sẽ rất ít người học lựa chọn ngành sư phạm, trường sẽ thiếu hụt nguồn tuyển dụng. Bàn về giải pháp cho vấn đề này, các chuyên gia cho rằng, nên theo mô hình nối tiếp gồm giai đoạn đào tạo về khoa học cơ bản, chuyên ngành và sau đó là giai đoạn đào tạo nghề sư phạm. Mô hình này có thể áp dụng với sinh viên học ngành sư phạm và các ngành khác nhưng có nhu cầu được đào tạo nghề sư phạm. Đây được coi là cách để các trường sư phạm thích ứng cao với nhu cầu và sự đa dạng hóa nghề nghiệp trong xã hội.
Áp lực nghề và đào tạo chất lượng giáo viên sẽ ngày càng cao. Từ ngày 1/1/2021 giáo viên sẽ không còn các loại phụ cấp mà chỉ được hưởng lương như viên chức khác. Các trường sư phạm sẽ lại thêm áp lực về nguồn tuyển sinh giảm theo cùng sức hấp dẫn của nghề. Việc sắp xếp lại hệ thống các trường sư phạm càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Các trường CĐSP có thể sáp nhập trở thành một phân hiệu của trường đại học đa ngành ở các địa phương. Chỉ có cách này mới giúp cho các trường mở rộng được quy mô và tăng nguồn tuyển. Việc chuyển đổi mục đích đào tạo, đa dạng hóa ngành nghề sẽ giúp những trường này ổn định và sẵn sàng tâm thế để thực hiện nhiệm vụ đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục.
Thay đổi trong tuyển dụng
NGND Lưu Xuân Giới cho rằng: Thực tế đang cho thấy nếu không có những đổi thay mạnh mẽ thì các trường sư phạm khó có thể nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Những năm gần đây, có không ít lời ca thán về việc các trường sư phạm không hút được nhiều sinh viên giỏi. Phần lớn các địa phương đã hết chỉ tiêu biên chế nhận giáo viên nên ngành học này ít có người đăng ký theo học. Đây là ảnh hưởng đầu tiên. Ngoài ra, nguy cơ phải ngừng việc đào tạo giáo viên ở một số trường sư phạm hiện hữu vì không có nguồn tuyển.
Để thực hiện được mục tiêu trên, đòi hỏi thay đổi quan niệm các nhà quản lý, hoạch định chính sách và từ chính các nhà trường. Các trường sư phạm không nhất thiết chỉ đào tạo giáo viên phổ thông và ngược lại tuyển chọn giáo viên phổ thông cũng không nên bắt buộc phải qua học trường sư phạm. Việc tuyển dụng giáo viên cần phải trả về cho ngành GD chủ trì thực hiện, có thể mới chủ động được biên chế cho cả hệ thống..
Lý giải những khó khăn của các trường sư phạm, nhiều ý kiến cho rằng có cả khách quan lẫn chủ quan. Khách quan do bản thân các nhà trường, nhưng chủ quan do công tác quy hoạch, dự báo của các địa phương chưa kịp thời hoặc không hiệu quả, nên nhiều địa phương tuyển dụng không đúng số lượng, cơ cấu đội ngũ dẫn đến việc thừa thiếu cục bộ. Việc phân cấp tại địa phương trong công tác tuyển dụng, sử dụng đội ngũ nhà giáo còn nhiều bất cập vì hầu hết ở các địa phương, cơ quan chuyên môn là sở GD&ĐT.
Nhưng cơ quan này lại không phải là đơn vị có quyền quyết định về tuyển dụng mà lại là cơ quan nội vụ. Điều này lý giải vì sao ngành GD-ĐT hoàn toàn không chủ động trong việc điều tiết số lượng, cơ cấu đội ngũ theo môn học, cấp học và không chủ động điều tiết được giáo viên thừa, thiếu. Và lại càng khó khăn hơn nữa khi nhiều địa phương thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế. Ngành GD rất đặc thù nhưng vẫn bị tinh giản như các ngành nghề khác.
Với mô hình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm, cùng với cách thức tuyển dụng như hiện nay sẽ khó giải quyết được bài toàn thừa thiếu giáo viên cũng như không tạo ra được tính ổn định cho nhân lực ngành sư phạm. Thừa thiếu giáo viên và vai trò của các trường sư phạm trong việc đào tạo giáo viên cho thấy cần có những chính sách đối với công tác này như vấn đề tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng.
Thực tế cho thấy, ngoài các trường đại học sư phạm và các trường đại học đa ngành có đào tạo sư phạm, mỗi địa phương hiện nay đều có trường cao đẳng sư phạm và vẫn được giao chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm. Nhưng vấn đề ở chỗ thông báo tuyển giáo viên các bậc phổ thông thì yêu cầu chỉ tuyển những đối tượng có bằng tốt nghiệp đại học. Một số trường nhanh chóng chuyển sang liên kết đào tạo đại học, còn bậc cao đẳng chỉ đào tạo chủ yếu ngành học mầm non.
Thực tế cho đến nay, một số địa phương mở được trường đại học đa ngành nên đã chủ động sát nhập trường CĐSP thành khoa sư phạm mạnh. Như Trường Đại học Trà Vinh đã sát nhập Trường CĐSP vào thành khoa sư phạm và đến nay trở thành một đơn vị đào tạo mạnh, uy tín, chất lượng. Nhưng số trường làm được như Trường Đại học Trà Vinh là không nhiều, phần lớn số phận của các trường CĐSP trên cả nước đang rơi vào bế tắc do không có nguồn tuyển. Trường CĐSP Nam Định là một ví dụ. Khoa Tự nhiên năm học 2018 – 2019 hiện có 16 giáo viên, nhưng chỉ có 30 sinh viên. Cũng như vậy, có những lớp sĩ số quá ít sinh viên như lớp Toán – Tin K39 có 7 SV; lớp Toán – Tin K40 có 3 SV, lớp Giáo dục thể chất K40 chỉ có 2 SV. Hay ở khoa Xã hội: Lớp Văn – Giáo dục công dân K39 có 5 SV; Lớp Văn – Giáo dục công dân K40 có 2 SV; Lớp Âm nhạc chỉ có 1SV. Có những ngành nhiều năm nay số lượng SV theo học rất ít như Toán – Tin, Văn – Giáo dục công dân, Âm nhạc…
Dĩ Hạ
Theo giaoducthoidai
Trường đại học không được tự in phôi chứng chỉ
Quy định mới về in sao, quản lý văn bằng chứng chỉ vừa được Bộ GD-ĐT ban hành với điểm khác biệt là các cơ sở giáo dục đại học không còn được tự in phôi chứng chỉ.
Điểm mới ở Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT về Quy chế quản lý bằng tốt nghiệp THCS, THPT, trung cấp/cao đẳng sư phạm; văn bằng giáo dục ĐH và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân mà Bộ GD-ĐT vừa ban hành.
Thông tư này thay thế thông tư số 19/2015/TT-BGDĐT ngày 8/9/2015 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT ban hành Quy chế quản lý bằng tốt nghiệp THCS, THPT; văn bằng giáo dục ĐH và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân.
Cụ thể, trước đây, cơ sở giáo dục đại học "tự chủ in phôi văn bằng giáo dục đại học và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân" (trừ chứng chỉ giáo dục quốc phòng - an ninh) và chịu trách nhiệm quản lý phôi văn bằng, chứng chỉ theo quy định của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT.
Còn giờ đây, theo thông tư vừa được ban hành, cơ sở giáo dục đại học và cơ sở đào tạo giáo viên được in phôi chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân "theo mẫu" do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quy định sau khi báo cáo bằng văn bản với Bộ.
Mẫu phôi chứng chỉ phải gửi báo cáo Bộ, cơ quan quản lý trực tiếp, công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi cơ sở giáo dục đóng trụ sở chính.
Trường đại học được tự thiết kế mẫu, in phôi văn bằng đại học
Riêng với phôi văn bằng giáo dục đại học thì các cơ sở này vẫn được tự chủ thiết kế mẫu, in phôi... Tuy nhiên, nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học và phụ lục văn bằng giáo dục đại học vẫn phải thực hiện theo quy định chung do Bộ GD-ĐT quy định.
Ngoài ra, thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học sau khi phê duyệt mẫu phôi văn bằng phải gửi mẫu về Bộ GD-ĐT, cơ quan quản lý trực tiếp, công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở giáo dục đóng trụ sở để báo cáo
Ngoài ra, Bộ GD-ĐT bổ sung trường hợp bị thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ so với trước đây. Cụ thể, có 6 trường hợp văn bằng, chứng chỉ bị thu hồi, hủy bỏ gồm: Do hành vi gian lận trong tuyển sinh, học tập, thi cử, bảo vệ đồ án, khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án hoặc gian lận trong việc làm hồ sơ để được cấp văn bằng, chứng chỉ; cấp cho người không đủ điều kiện; do người không có thẩm quyền cấp; bị tẩy xóa, sửa chữa; để cho người khác sử dụng; do lỗi của cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.
Thông tư có hiệu lực từ ngày 15-1-2020.
Theo anninhthudo
Quyền lợi của giáo viên và những điều cần biết khi tinh giản biên chế Từ 01/7/2020, khi Luật giáo dục 2019 có hiệu lực thi hành, những giáo viên chưa đạt chuẩn mới sẽ phải tham gia lộ trình nâng chuẩn cụ thể tùy vào từng địa phương, tùy từng trường hợp. Nếu không thực hiện nâng chuẩn những giáo viên này có thể sẽ thuộc diện tinh giản biên chế. Từ năm 2020, khi Luật giáo...