Quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Liên hợp quốc và Đại hội đồng IPU
Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 (IPU-132) được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 28/3 đến ngày 1/4 với chủ đề “Các mục tiêu phát triển bền vững: Biến lời nói thành hành động.”
Bà Pratibha Mehta (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)
Nhân dịp này, Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam, tiến sỹ Pratibha Mehta đã trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN về mối quan hệ hợp tác giữa Liên hợp quốc và Liên minh Nghị viện Thế giới.
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
- Bà có thể chia sẻ về sự hợp tác và mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa Liên hợp quốc và Liên minh Nghị viện Thế giới?
Bà Pratibha Mehta: Liên minh Nghị viện Thế giới và Liên hợp quốc đã có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ kể từ đầu những năm 1990, với mục tiêu cùng đóng góp xây dựng những quan hệ quốc tế và đưa ra các quyết định có tính minh bạch và có trách nhiệm hơn.
Sự hợp tác giữa Liên hợp quốc và Liên minh Nghị viện Thế giới đã được thể chế hóa trong hai hội nghị cấp cao nghị sỹ của nghị viện toàn thế giới trong năm 2000 và năm 2005 tại New York.
Tại hội nghị đầu tiên, nghị sỹ của các nghị viện trên thế giới đã cam kết sẽ hỗ trợ các nguồn lực cho Liên hợp quốc nhằm giúp giải quyết những thách thức phức tạp trên toàn cầu và nâng cao các kết quả phát triển.
Trong năm 2010, các nghị sỹ đã một lần nữa triệu tập một cuộc họp để đánh giá công tác của cộng đồng nghị viện trong việc thúc đẩy các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu quan trọng khác trên toàn cầu. Trong tuyên bố cuối cùng, các nghị sỹ đã cam kết sẽ hỗ trợ cải tổ Liên hợp quốc trong việc tham gia thường xuyên và cụ thể hơn với các nghị viện quốc gia.
Trong tháng 11/2002, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đưa ra nghị quyết thông qua tư cách quan sát viên của Liên minh Nghị viện Thế giới. Nghị quyết về sự hợp tác giữa Liên hợp quốc và Liên minh Nghị viện Thế giới này đã cho phép lưu hành các tài liệu chính thức của Liên minh Nghị viện Thế giới tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và trực tiếp nâng cao những đóng góp của Liên minh Nghị viện Thế giới trong sứ mệnh của Liên hợp quốc.
Sự hợp tác liên tục này được căn cứ theo hai cơ chế thể chế chính: Một phiên điều trần nghị viện, được tổ chức bởi Liên minh Nghị viện Thế giới trong phiên họp mùa thu hàng năm của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nhằm cung cấp một cơ hội cho các thành viên của Nghị viện tham gia vào các cuộc tranh luận về nội dung và tương tác với các quan chức Liên hợp quốc và các bên liên quan khác.
Một Ủy ban chuyên về các vấn đề Liên hợp quốc thuộc Liên minh Nghị viện Thế giới, được thành lập vào mùa Xuân năm 2007 đã tiến hành các nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực với các nước thí điểm thực hiện sáng kiến “Thống nhất hành động” của Liên hợp quốc ở cấp quốc gia.
Những nhiệm vụ này nhằm đánh giá sự tiến bộ trong việc đảm bảo tính nhất quán cao hơn trong hệ thống Liên hợp quốc, bao gồm sự tham gia lớn hơn của nghị viện trong việc xây dựng kế hoạch phát triển quốc gia và giám sát hiệu quả công tác viện trợ. Ủy ban đã có chuyến công tác tại Việt Nam để kiểm tra đánh giá việc cải tổ Liên hợp quốc vào tháng 2/2009.
Liên minh Nghị viện Thế giới và Liên hợp quốc cũng đang thực hiện các hoạt động chung trong các lĩnh vực được ưu tiên như dân chủ, bao gồm tăng cường các nghị viện, quyền con người, các vấn đề của phụ nữ, bảo vệ trẻ em, HIV/AIDS, thương mại và phát triển bền vững. Sự hợp tác này cũng liên quan đến sự tăng lên của các cơ quan và các chương trình đặc biệt của Liên hợp quốc.
Vì vậy, chúng ta thấy ở đây rõ ràng có một sự hợp tác thực chất giữa Liên hợp quốc và Liên minh Nghị viện Thế giới bao gồm nhiều lĩnh vực được quan tâm chung. Chúng tôi hoàn toàn hy vọng mối quan hệ này sẽ được tiếp tục củng cố trong những năm tới.
- Xin bà cho biết quan điểm về chủ đề chung của Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần này tại Việt Nam, đặc biệt là sự liên quan đến vai trò của nghị viện trong việc phát triển và triển khai thực hiện các chương trình nghị sự sau năm 2015 và mục tiêu phát triển bền vững?
Video đang HOT
Bà Pratibha Mehta: Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 sẽ thảo luận về các vấn đề khác nhau liên quan đến hòa bình và an ninh, thương mại, phát triển bền vững và quyền con người, trong đó có chiến tranh mạng, quản lý nước và các chủ đề khác.
Ngoài ra, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 còn có các diễn đàn cho thanh niên và đại biểu nghị sĩ là phụ nữ để thảo luận về các vấn đề chung thu hút nhiều sự quan tâm. Chủ đề chính của Liên minh Nghị viện Thế giới lần này là “Các mục tiêu phát triển bền vững: Biến lời nói thành hành động.”
Bây giờ là một thời điểm quan trọng trong sự hình thành và phát triển của các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), khuôn khổ toàn cầu đã được thống nhất đồng ý. Các mục tiêu phát triển bền vững này được xây dựng dựa trên các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) sẽ hết hạn trong năm nay.
Nhóm công tác mở (OWG) được thành lập bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc với vai trò như một thực thể liên chính phủ toàn diện và minh bạch nhằm đưa ra các khuyến nghị về một tập hợp các mục tiêu phát triển bền vững.
Các Chính phủ và các bên liên quan khác, dưới sự phối hợp của Liên hợp quốc, hiện đang thảo luận về danh sách đề xuất của các mục tiêu phát triển bền vững. Danh sách này đã được trình bày bởi Nhóm công tác mở vào tháng 9/2014. Điều này cũng đã được nêu trong Báo cáo tổng hợp của Tổng thư ký đệ trình tại Đại hội đồng Liên hợp quốc vào tháng 12/2014.
Cũng thật trùng hợp khi thời điểm này Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 thảo luận về vai trò của nghị viện trong việc thực hiện và khoanh vùng các mục tiêu phát triển bền vững. Đây cũng là một kênh thông tin cho các nghị viên nhằm thu thập thông tin cho các cuộc thảo luận chính thức trong năm nay, đồng thời định hình một khuôn khổ hướng dẫn và theo dõi tiến độ phát triển quốc tế cho đến năm 2030.
Chương trình nghị sự phát triển sau năm 2015 sẽ được xây dựng dựa trên những thành tựu đã đạt được cũng như những kết quả chưa được hoàn thành của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Do đó chúng ta có thể muốn xem xét lại tiến trình hoàn thiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỳ trên toàn cầu cũng như tại mỗi quốc gia.
Sau 15 năm ký kết Tuyên bố Thiên niên kỷ, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng sự tiến bộ thật sự và lâu dài đã được thực hiện. Trên toàn cầu, nhiều mục tiêu và chỉ tiêu đã được hoàn thành hoặc gần được hoàn thành.
Nghèo đói cùng cực đã giảm một nửa; sự lây lan nhanh chóng của các bệnh nghiêm trọng như bệnh lao và sốt rét đã được dừng lại; sự bất bình đẳng giới trong giáo dục đã được thu hẹp và việc tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường đã trở thành hiện thực đối với nhiều người.
Việt Nam cũng không ngoài ngoại lệ này. Việt Nam đã trở thành hình mẫu thành công cho nhiều quốc gia học tập bởi Việt Nam đã hoàn thành nhiều mục tiêu và chỉ tiêu đề ra với hiệu quả cao.
Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 10% năm 2000 xuống còn 6% vào năm 2014. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm hơn một nửa trong suốt hai thập kỷ qua, từ 58 năm 1990 xuống còn 22,9 năm 2014.
Tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến mang thai đã giảm hơn 2/3 trong giai đoạn từ 1990-2014, giảm từ 233 xuống còn 60 trường hợp bà mẹ tử vong trên 100.000 ca sinh.
Để hoàn thành các mục tiêu kể trên, chúng ta có thể thấy được sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, sự tích hợp và lồng ghép của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ với bối cảnh quốc gia và trong các kế hoạch phát triển là vô cùng quan trọng.
Chúng ta cần phân biệt rõ ràng rằng những đề xuất phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là vòng thứ hai hay sự lặp lại của các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, mà các mục tiêu này tham vọng và toàn diện hơn. Bối cảnh phát triển đã có sự thay đổi đáng kể.
Một số thách thức, đặc biệt là biến đổi khí hậu và bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các nước và tại mỗi quốc gia, ngày càng trở nên cấp bách hơn. Dự thảo khuôn khổ phát triển bền vững không chỉ nhằm nhận ra tầm quan trọng của sự hợp tác công trên toàn cầu và các quan hệ đối tác toàn cầu – giữa các quốc gia, mà còn nhằm thu hút sự tham gia các bên liên quan khác nhau bao gồm cả khu vực tư nhân, các nghị viện và các tổ chức xã hội dân sự.
Dự thảo các mục tiêu phát triển bền vững vạch ra một chương trình nghị sự phát triển mới rộng lớn hơn, tuy nhiên vẫn dựa trên căn cứ. Dự thảo này cũng báo trước một cách tiếp cận và giám sát sự thay đổi mới. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách chiến lược quốc gia ở khắp mọi nơi, trong đó có Việt Nam.
Một mục tiêu đặc biệt của phát triển bền vững về quản trị công tốt hơn đã được đặt ra trong các đề xuất của Nhóm công tác mở.
Chúng ta không thể nói về việc phát triển và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững mà không nhấn mạnh vai trò của các nghị viện.
Đầu tiên và quan trọng nhất, để thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững yêu cầu sự tham gia tích cực hơn nữa của các nghị sỹ trong việc hoạch định chính sách, đặc biệt là ở cấp chiến lược. Điều này không chỉ liên quan đến việc theo dõi và đánh giá tiến độ, mà các nghị sỹ cần phải hướng dẫn và ủy quyền cải tổ và đảm bảo sự gắn kết chính sách một cách tổng thể.
Thứ hai, các nghị viện cần xem xét đến các chức năng thuộc nghị viện làm sao có thể được hỗ trợ và thể chế hóa trong quá trình hoạt động. Trong khi có rất nhiều ví dụ từ trong thời gian thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, mà chúng ta có thể áp dụng lại được.
Ví dụ như Ủy ban Thường vụ ở Philippines hay Ủy ban giải pháp mục tiêu phát triển thiên niên kỷ ở Mông Cổ. Điều quan trọng là các nhà lập pháp quốc gia phải xây dựng các giải pháp liên quan đến bối cảnh riêng của từng đất nước.
Cuối cùng, các nghị viện quốc gia có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ đối tác, không chỉ trong và giữa các quốc gia, giữa các bộ và chính quyền địa phương; mà còn bên ngoài nghị viện bao gồm các tổ chức xã hội dân sự và khu vực tư nhân.
Khi Quốc hội Việt Nam đã phát triển và được trao quyền trong những năm gần đây; lợi ích kinh doanh, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức phi Chính phủ khác đã nhận được một cuộc điều trần mạnh mẽ hơn. Điều này nên được tiếp tục trong việc triển khai thực hiện khuôn khổ mục tiêu phát triển bền vững.
Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 lần này tập trung vào các mục tiêu phát triển bền vững nhằm đem lại một cơ hội cho các nghị sỹ tranh luận về vai trò của họ trong việc thúc đẩy nhanh các nỗ lực hình thành và phát triển của các mục tiêu phát triển bền vững.
Tôi tin tưởng rằng các nghị sỹ khi tham gia Liên minh Nghị viện Thế giới sẽ có những đóng góp ý kiến mạnh mẽ và có những hành động cụ thể nhằm đạt được mục tiêu “nhân phẩm cho mọi người.”
- Trân trọng cảm ơn bà./.
Theo Nguyễn Hồng Điệp (TTXVN/Vietnam )
Quan hệ nước lớn 2014 và những tác động
Năm 2014 qua đi với những gam màu sáng - tối đan xen trong cục diện chính trị - kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong quan hệ giữa các nước lớn Mỹ, Trung Quốc, Nga - yếu tố có tác động lớn đến quan hệ quốc tế và lợi ích của từng quốc gia.
Mỹ - Trung: Cạnh tranh xen hợp tác
Quan hệ Mỹ - Trung trong năm 2014 tiếp tục mang đậm đặc trưng "đối thủ cạnh tranh" xen lẫn "đối tác hợp tác", với điểm nhấn là việc cả hai nước đều cố gắng không để trục quan hệ có tầm quan trọng nhất trên thế giới này đi vào thế đối đầu gay gắt, trực diện, vượt tầm kiểm soát.
Nhân tố cạnh tranh xuất phát từ chính vai trò, vị thế của mỗi nước, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sau hơn 30 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã có bước tiến dài, chính thức vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP) - theo đánh giá của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Quan hệ giữa các nước lớn có tác động lớn đến cục diện quốc tế
Quyền lực về kinh tế đi kèm với sức nặng chính trị là tiền đề để quốc gia đông dân nhất thế giới vươn mình ra bên ngoài, khẳng định vị thế cường quốc tầm châu lục và thế giới. Từ bỏ phương châm "giấu mình chờ thời", Trung Quốc giờ đây không ngần ngại nói đến vị thế mới cho riêng mình. Lãnh đạo nước này đã nhiều lần nói đến khái niệm "châu Á là của người châu Á" mà ẩn đằng sau đó là vai trò lãnh đạo của riêng Trung Quốc. Sự phát triển này đương nhiên không làm Mỹ - nước tự xem mình là cường quốc duy nhất được thừa nhận trên thế giới, bằng lòng, vì đó là sự va chạm về mặt quyền lực và quyền lợi.
Tuy nhiên, cả Mỹ và Trung Quốc đều chủ động "chừa ra" dư địa cho việc tăng cường hợp tác song phương, khi mà hai nước ràng buộc khá chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Mỹ và Trung Quốc hiện đều là những đối tác kinh tế lớn nhất của nhau, với kim ngạch thương mại song phương vượt 500 tỉ USD/năm. Trung Quốc đang nắm giữ một lượng trái phiếu chính phủ Mỹ trị giá khoảng 1.300 tỉ USD, là "chủ nợ" lớn nhất của Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ và Trung Quốc đều cần đến nhau trong nhiều vấn khác như biến đổi khí hậu, thương mại toàn cầu... Điều đó giải thích tại sao lãnh đạo hai nước muốn hướng đến một tầm nhìn chiến lược cho quan hệ song phương, tiếp tục thúc đẩy mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới, không xung đột, không đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng thắng. Đặc biệt, Washington và Bắc Kinh đã đạt được một loạt những thỏa thuận quan trọng tại cuộc gặp cấp cao bên lề Hội nghị thượng đỉnh APEC vừa qua ở Bắc Kinh. Nổi bật nhất trong số này là cam kết tránh đối đầu quân sự tại châu Á, thỏa thuận thương mại về công nghệ thông tin trị giá 1.000 tỉ USD.
Nga - Trung: Lợi ích song trùng
Hợp tác Nga - Trung có bước phát triển mạnh trong năm 2014 trên nền tảng đã được xác lập từ trước. Lãnh đạo hai nước đã có hơn 10 cuộc tiếp xúc cấp cao, đi liền với đó là việc ký kết hơn 50 văn kiện hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố quan hệ Nga - Trung đang ở giai đoạn "tốt nhất" trong lịch sử. Hợp tác kinh tế diễn ra sôi động, nổi bật là việc ký kết hai hợp đồng Nga cung cấp 68 tỉ m3 khí đốt/năm cho Trung Quốc, trị giá hàng trăm tỉ USD.
Chuyển động bước ngoặt trong quan hệ Nga - Trung được khơi nguồn từ việc cả hai bên đều thuận theo quan điểm không chấp thuận một thế giới đơn cực, ủng hộ cục diện đa cực, mà ở đó Nga và Trung Quốc là cực trung tâm. Đặc biệt, mối bang giao này có thêm xung lực mới sau cuộc khủng hoảng Ukraine. Trước việc bị Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) phong tỏa, cô lập về kinh tế thông qua hàng loạt các lệnh cấm vận, Nga đã đẩy mạnh các bước tiến về phía Đông mà ở đó Trung Quốc nổi lên là đối tác đặc biệt quan trọng.
Nga xem Trung Quốc là thị trường tiêu thụ năng lượng chủ chốt, là đầu mối cung cấp các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và là nhà "cung cấp vốn" quan trọng cho các dự án, chương trình phát triển kinh tế lớn của Nga, trong bối cảnh thị trường và nguồn vốn từ các nước phương Tây tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Về phần mình, Trung Quốc cũng thu được các lợi ích to lớn trong hợp tác với Nga. Quan hệ hợp tác với Nga giúp Trung Quốc đẩy nhanh tiến trình hội nhập Á - Âu, tạo đối trọng trước chiến lược xoay trục của Mỹ sang châu Á - Thái Bình Dương. Nó cũng giúp Bắc Kinh có thêm điều kiện thuận lợi để gia tăng hợp tác quân sự với Moskva nhằm đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa quân đội - một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược "Bốn hiện đại hóa". Trên nền tảng lợi ích song trùng như vậy, cả Nga và Trung Quốc sẽ có được tiếng nói và sức mạnh thống nhất trong các thiết chế đa phương để phản đối các biểu hiện của lối hành xử đơn phương.
Tuy nhiên, được định hình và thúc đẩy bởi yếu tố tình thế nên quan hệ Nga - Trung có thực sự bền chặt hay không vẫn sẽ là một dấu hỏi lớn.
Nga - Mỹ: Một gam màu xám
Quan hệ Nga - Mỹ đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô, thậm chí có đánh giá cho rằng hai nước đã tiến đến một cuộc Chiến tranh Lạnh phiên bản 2.0. Thực trạng này phản ánh một thực tế: Việc chính quyền Tổng thống Obama tuyên bố "cài đặt lại" quan hệ với Nga hơn một năm trước đây thực chất chỉ là cách nói mang tính "sáo ngữ".
Rạn nứt giữa Washtington và Moskva thoạt nhìn có nguyên nhân sâu xa từ cuộc khủng hoảng Ukraine, khi mà cả hai đều kiên quyết bảo vệ lợi ích của mình tại quốc gia có tầm quan trọng chiến lược này. Mỹ và đồng minh phương Tây ủng hộ phe đối lập Ukraine tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống Viktor Yanukovych dưới "khẩu hiệu" tăng cường liên kết và hội nhập với châu Âu. Mục đích chính là tạo lập một chính quyền Kiev thân Mỹ, giúp Washington vươn tầm ảnh hưởng tới sát nách nước Nga. Đó là điều mà Moskva không chấp nhận, đối đầu Nga - Mỹ vì thế tăng nhiệt.
Thế nhưng, việc Crimea sáp nhập vào Nga suy cho cùng chỉ là "điểm nút", làm phát lộ những mâu thuẫn tích tụ lâu nay giữa Moskva và Washington. Quan hệ Nga - Mỹ đã "chết" trước khi nổ ra khủng hoảng Ukraine - như đánh giá của Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov. Nguyên do chủ yếu là việc hai bên "thiếu lòng tin, thừa sự nghi ngại".
Làm suy yếu và chia rẽ nước Nga vẫn luôn là mục tiêu nhất quán của nhiều đời Tổng thống Mỹ. Nó thể hiện qua việc Mỹ đã âm thầm lôi kéo các nước thuộc không gian hậu Xô Viết gia nhập khu vực ảnh hưởng của phương Tây, thúc đẩy các phong trào dân chủ trong lòng nước Nga, thông qua vai trò của các tổ chức phi chính phủ. Trong thông điệp liên bang 2014, Tổng thống Putin đã không ngần ngại nói thẳng rằng, hơn một thập kỉ qua Mỹ luôn tìm cách hạ thấp vai trò của Nga trong các vấn đề toàn cầu và "sẵn sàng áp dụng các kịch bản Nam Tư để chia cắt và làm phân rã nước Nga".
Những tác động lớn
Chuyển động qua lại theo các chiều hướng khác nhau trong quan hệ tam giác Mỹ - Trung Quốc - Nga năm 2014 có tác động lớn đến cục diện quốc tế, trên cả hai khí cạnh chủ yếu sau.
Thứ nhất, nó gây ra những biến chuyển địa chính trị, địa kinh tế và tác động trực tiếp đến lợi ích của các nước khác. Xu hướng nóng lên hay dịu đi tại các điểm nóng tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông, Biển Đông, khủng hoảng bên trong châu Âu trong vấn đề Ukraine, bất ổn tại Trung Đông... ở một góc độ nào đó đều mang dấu ấn của sự dịch chuyển, cọ xát trong quan hệ giữa các nước lớn.
Kinh tế toàn cầu cũng chứng kiến đà lao dốc của giá dầu, xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, mà một phần nguyên nhân được cho là do hệ quả của "trò chơi" giữa các nước lớn. Vô hình trung, khủng hoảng Ukraine đã gây tác động không nhỏ tới quốc gia cách đó cả nghìn dặm là Venezuela, khi quốc gia Nam Mỹ này phải mặt với tình trạng lạm phát tăng cao, khan hiếm hàng hóa, tiềm ẩn bất ổn xã hội do ngân sách phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu dầu.
Thứ hai, nó đặt ra nhiều thách thức đối với các nước nhỏ trong xử lý quan hệ với các nước lớn. Khủng hoảng Ukraine nổ ra vì nhiều nguyên nhân, nhưng trên hết là việc nhiều thế hệ lãnh đạo Kiev đã bế tắc và thất bại trong việc dung hòa quan hệ với Nga và phương Tây dựa trên nền tảng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thế "tiến thoái lưỡng nan" như vậy cũng là tình cảnh mà nhiều nước như Serbia, Moldova, Hungary, Bulgaria... đang gặp phải.
Theo Hoài Thanh/baotintuc.vn
Đội điệp viên ưu tú nhất trong cuộc chiến chống IS Đội điệp viên Mukhabarat ưu tú của Jordan được coi là tai mắt của Mỹ tại Trung Đông trong cuộc chiến chống IS. Khi nói tới các cơ quan tình báo mạnh, người ta thường có xu hướng nghĩ tới CIA của Mỹ, Mossad của Israel và KGB của Liên Xô. Tuy nhiên, lực lượng tình báo của Jordan cũng rất ưu tú....