Phương pháp điều trị giun hiệu quả, ít tốn kém của nhóm nghiên cứu trường Y
Giun đũa chó là bệnh phổ biến ở trẻ em, có thể được điều trị dứt điểm, kịp thời, giá thành rẻ nhờ nghiên cứu của các nhà khoa học.
PGS.TS.BS Hà Văn Thiệu (chủ nhiệm nhiệm vụ) báo cáo kết quả đề tài tại buổi nghiệm thu.
Giun đũa chó là bệnh phổ biến ở trẻ em, có thể được điều trị dứt điểm, kịp thời, giá thành rẻ nhờ nghiên cứu của các nhà khoa học Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TPHCM.
Sự nguy hiểm của giun đũa chó
Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM vừa tổ chức Hội đồng tư vấn nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu tình hình nhiễm giun đũa chó và hiệu quả điều trị bằng Albendazole ở học sinh tại TPHCM”. Đây là nhiệm vụ do Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch chủ trì thực hiện.
PGS.TS.BS Hà Văn Thiệu, đồng chủ nhiệm nhiệm vụ cho biết, bệnh giun đũa chó hay bệnh ấu trùng di chuyển nội tạng có tên khoa học là Toxocara canis, thuộc nhóm “bệnh động vật lây sang người”. Ký sinh trùng giun đũa chó không những ký sinh ở ruột chó, mà còn gây bệnh sang người, làm tổn thương gan, não, phổi, mắt… hoặc bất cứ đâu mà chúng di chuyển đến.
Mặc dù đã có những hướng điều trị, can thiệp nhất định về mặt y học, tuy nhiên do thói quen sinh hoạt của chó khiến bệnh rất dễ lây nhiễm sang người, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh vẫn khá cao trên thế giới và tại Việt Nam.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh đa dạng và không đặc hiệu nên việc chẩn đoán gặp nhiều khó khăn, đặc biệt, tại Việt Nam cũng như tại TPHCM rất ít nghiên cứu tập trung về tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó, liệu trình điều trị, theo dõi sau điều trị để đánh giá sự đáp ứng và những tác dụng ngoại ý của thuốc với đối tượng chuyên biệt là trẻ em.
Nhóm nghiên cứu đặt ra mục tiêu là xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa chó trên học sinh tại TPHCM và đánh giá hiệu quả, cũng như các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị của Albendazole.
PGS.TS.BS Hà Văn Thiệu cho biết, nhóm đã khám và thu thập chỉ số nhân trắc, các triệu chứng lâm sàng của 960 mẫu; tái khám và theo dõi diễn tiến điều trị sau 1 tháng; tái khám và theo dõi diễn tiến điều trị sau 6 tháng; theo dõi trong 6 tháng; phân tích tỷ lệ nhiễm giun đũa chó, yếu tố nguy cơ, tỷ lệ điều trị thành công và thất bại, lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau điều trị, tác dụng phụ của Albendazole; mô tả hình thái học và dịch tễ học giun đũa chó; cơ chế miễn dịch và cơ chế bệnh sinh nhiễm giun đũa chó, đặc điểm lâm sàng; chẩn đoán và triển vọng về chẩn đoán nhiễm giun đũa chó; điều trị, hướng dẫn điều trị và phòng bệnh; hướng dẫn chẩn đoán, điều trị, theo dõi sau điều trị…
Học sinh tiểu học là nhóm dễ mắc nhất
Theo PGS.TS.BS Hà Văn Thiệu, Albendazole là một dẫn chất Benzimidazol carbamat, lần đầu tiên được phê duyệt là thuốc điều trị giun cho người vào năm 1982. Đề tài này được tiến hành với 2 giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 là điều tra cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa chó và giai đoạn 2 là nghiên cứu can thiệp nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều trị Albendazole trên trẻ nhiễm ấu trùng giun đũa chó.
Nhóm nghiên cứu đã chọn mỗi khối lớp ở mỗi cụm trường tối thiểu 16 học sinh từ 3 – 15 tuổi tại các trường trên địa bàn TPHCM.
Qua cuộc điều tra cắt ngang mẫu nghiên cứu gồm 986 học sinh đưa vào mẫu nghiên cứu (nam: 474 và nữ: 512), nhóm thực hiện đã ghi nhận một số nội dung như: Học sinh tiểu học chiếm tỷ lệ nhiễm cao là 45%; về tỷ lệ ELISA (phương pháp xét nghiệm miễn dịch hấp phụ liên kết enzyme) dương tính giun đũa chó theo đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu, tỷ lệ ELISA dương tính giun đũa chó theo 2 giới nam và nữ lần lượt là 14% và 15%; học sinh trung học cơ sở có tỷ lệ ELISA dương tính giun đũa chó cao là 21%, chiếm tỷ lệ thấp là học sinh mầm non với 9,1%.
Video đang HOT
Xét nghiệm sinh hóa máu cho thấy, tỷ lệ tăng IgE ( globin miễn dịch E) ở nhóm ELISA dương tính giun đũa chó là 37% và nhóm âm tính là 23%; tỷ lệ tăng BCAT (bạch cầu ái toan) tăng nhẹ là 38%, tăng cao là 2,2% ở nhóm ELISA dương tính giun đũa chó và nhóm âm tính tăng nhẹ là 29%, tăng cao là 0,2%.
Kết quả trước và sau điều trị 1 tháng, 6 tháng cho thấy, với số học sinh ELISA dương tính giun đũa chó tuân thủ điều trị tham gia khám và được xét nghiệm sau điều trị là 107 em, điều trị bằng Albendazole với liều 10 – 15 mg/kg/5 ngày, uống sau ăn chia 2 lần/ngày, hầu hết các triệu chứng lâm sàng đều giảm sau khi điều trị. Cụ thể, các triệu chứng mẩn ngứa, đau bụng, mề đay đều giảm sau khi điều trị, lần lượt chỉ còn 6,5%, 5,6% và 3,7%.
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất tuyên truyền cho người dân về việc phòng, chống bệnh do nhiễm ấu trùng giun đũa chó qua việc không thả rông, hạn chế bồng bế chó, đặc biệt là trẻ em; vệ sinh tay trước khi ăn; dùng các phương tiện bảo hộ lao động như ủng, găng… khi làm việc tiếp xúc trực tiếp với đất; tẩy giun cho chó định kỳ nhằm hạn chế các yếu tố nguy cơ nhiễm; trẻ em ngứa, mề đay, ban đỏ, xét nghiệm máu có tăng bạch cầu ái toan>0,38, chưa rõ nguyên nhân, cần hướng đến tầm soát bệnh giun đũa chó…
Ấu trùng sán lợn: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh
Nhiễm ấu trùng sán lợn (hay còn gọi là sán dây) do ăn phải thức ăn hoặc nước, thịt lợn bị nhiễm trứng sán dây hoặc ấu trùng.
Khi đi vào cơ thể người, ấu trùng này sẽ gây ra những mối nguy hại về sức khỏe tại các bộ phận mà nó trú ngụ.
1. Nguyên nhân ấu trùng sán lợn
Có nhiều nguyên nhân gây bệnh ấu trùng sán lợn trong đó một số nguyên nhân gồm:
Ăn hay uống phải trứng ấu trùng hoặc sán dây: Đây là lý do chính khiến bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng.
Ăn phải nang ấu trùng trong thịt hoặc các mô cơ: Khi một con vật có sán dây ký sinh trong cơ thể, ấu trùng sán dây sẽ xâm nhập vào trong mô cơ của nó. Khi ăn thịt con vật bị nhiễm đó chưa được nấu chín theo thời gian sẽ phát triển thành sán dây trưởng thành trong ruột.
Ấu trùng sán lợn có trong thịt sống sẽ chết khi được đun sôi trong vòng 2 phút hoặc đun nấu ở nhiệt độ 75 độ C trong vòng 5 phút. Tuy nhiên, chính vì thói quen ăn uống thiếu sạch sẽ, không vệ sinh như ăn các loại thịt không được chế biến kỹ như nem chua, nem thính... hay ăn sống như gỏi, rau sống, tiết canh... dẫn đến việc mắc bệnh ấu trùng sán lợn. Hiện bệnh vẫn còn lưu hành ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam.
2. Dấu hiệu nhiễm ấu trùng sán lợn
Các biểu hiện của bệnh sán dây thường không rõ ràng. Người bệnh có thể gặp một số triệu chứng như rối loạn tiêu hóa nhẹ, đau bụng, cảm giác bứt rứt, khó chịu, có những đốt sán tự rụng theo phân ra ngoài.
Đốt sán là những đoạn nhỏ có hình dạng dẹt, màu trắng ngà như xơ mít, đầu sán phẳng, có thể phát hiện thấy có trứng sán trong phân.
Theo các chuyên gia y tế, tùy thuộc vào vị trí ký sinh và đóng kén của sán dây mà người bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau:
Nang sán nằm trong não: Người bệnh có thể bị động kinh, liệt nửa người hay liệt tay, chân, nói ngọng, đau đầu dữ dội hoặc rối loạn trí nhớ. Trẻ bị nhiễm ấu trùng sán lợn sẽ bị ảnh hưởng tới khả năng phát triển của não bộ, ảnh hưởng tới vấn đề học tập, đồng thời trẻ có thể bị co giật hay ngất xỉu đột ngột.
Nang sán nằm trong mắt: tăng nhãn áp, chèn ép sau nhãn cầu, thị lực của người bệnh bị giảm hoặc mù.
Nang sán nằm ở dưới da, thường ở cơ bắp tay, chân hoặc cơ lưng, ngực, cơ liên sườn: gây ra triệu chứng máy, giật cơ. Cần chú ý phân biệt với hạch nếu xuất hiện một số nang đơn lẻ.
Nang sán nằm ở dưới da, thường ở cơ bắp tay, chân hoặc cơ lưng, ngực...
3. Ấu trùng sán lợn có lây không?
Ấu trùng sán lợn là bệnh lây truyền qua đường thực phẩm do ký sinh trùng. Bệnh thường xảy ra ở những nước có nền kinh tế kém phát triển. Những vùng có tiêu chuẩn vệ sinh cá nhân thấp, vệ sinh môi trường kém, quản lý chăn nuôi kém, kiểm tra thịt chưa đầy đủ... Vì vậy, đây không phải bệnh lây nhiễm nên không thể lây từ người sang người.
4. Cách phòng ấu trùng sán lợn
Để phòng ấu trùng sán lợn cần tuân thủ nguyên tắc vệ sinh, vệ sinh môi trường sống tốt.
Tuyệt đối không được sử dụng thịt lợn bệnh để chế biến thực phẩm, phải tuân thủ quy tắc "ăn chín, uống sôi", sử dụng các loại thức ăn đã được chế biến hợp vệ sinh, nấu chín kỹ.
Không ăn các loại thực phẩm sống như thịt lợn, thịt lợn tái, nem chua (nguy cơ nhiễm sán dây trưởng thành), rau sống không đảm bảo vệ sinh (nguy cơ bị bệnh ấu trùng sán lợn).
Quản lý chất thải, phân tươi, nhất là ở những nơi có người nhiễm sán dây lợn trưởng thành trong ruột.
Không dùng phân gia súc và phân người chưa ủ đúng kỹ thuật để bón cho cây trồng và rau xanh.
Không nuôi lợn thả rông, sử dụng hố xí hợp vệ sinh, vệ sinh môi trường sống sạch sẽ xung quanh người và vật nuôi.
Người có sán trưởng thường thành trong ruột phải tiếp nhận điều trị dứt điểm, không phóng uế bừa bãi.
Quản lý chặt chẽ tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các lò mổ lợn.
Trước khi chế biến thực phẩm hoặc trước khi ăn phải rửa tay thường xuyên bằng xà phòng; tắm và vệ sinh cơ thể sạch sẽ mỗi ngày.
Đối với trẻ từ 2 tuổi trở lên tẩy giun sán 6 tháng/lần. Người bệnh cần được phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị đúng phác đồ.
Trước khi chế biến thực phẩm hoặc trước khi ăn phải rửa tay bằng xà phòng.
5. Cách điều trị ấu trùng sán lợn
Chẩn đoán bệnh ấu trùng sán lợn cần dựa vào các yếu tố khai thác dịch tễ - tiền sử tiếp xúc, triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm. Chẩn đoán xác định khi thấy hình ảnh đặc trưng của nang sán/ ký sinh trùng trên mô bệnh học hoặc trực tiếp thấy ký sinh trùng khi soi đáy mắt hoặc hình ảnh đầu sán trên phim cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà các bác sĩ sẽ chỉ định phù hợp. Bệnh nhân sẽ được chỉ định sử dụng một số loại thuốc để "tiêu diệt" chúng như albendazole, praziquantel, nitazoxanide.
Một số phương pháp điều trị khác được áp dụng đối với trường hợp nhiễm trùng xâm lấn gồm có:
Thuốc trừ giun sán.
Điều trị chống viêm.
Điều trị chống động kinh.
Đặt shunt với trường hợp nhiễm trùng xâm lấn gây ra tình trạng não úng thủy.
Phẫu thuật để loại bỏ những nang phát triển trong gan, phổi và mắt vì chúng có thể đe dọa đến chức năng của các cơ quan, dễ gây biến chứng nghiêm trọng.
Hiện đã có đầy đủ các loại thuốc để có thể điều trị khỏi tất cả các thể nhiễm sán nên nếu không may mắc bệnh ấu trùng sán lợn thì người dân cũng không nên quá lo lắng vì bệnh không khó điều trị. Vì vậy, người dân không nên tự ý mua thuốc về để tự trị và không nên điều trị bằng thuốc nam, Đông y hay các thuốc cổ điển vì dễ làm bệnh nghiêm trọng và gây biến chứng nguy hiểm.
Sán não ở người nguy hiểm như thế nào? Do thói quen ăn đồ sống hoặc tái nên người dân dễ có nguy cơ mắc sán não. Đây là bệnh liên quan ký sinh trùng nguy hiểm nhất lại thường bị nhầm với bệnh về thần kinh nên phần lớn phát hiện muộn, khi ấu trùng sán lợn đã gây tổn thương não. Sán não do ăn tiết canh, gỏi cá, thịt...