Phòng ngừa hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh
Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) có thể là nỗi ám ảnh của nhiều ông bố bà mẹ. Hãy tham khảo một số hướng dẫn dưới đây từ Hội Nhi khoa Hoa Kỳ để phòng ngừa nguy cơ đột tử ở trẻ sơ sinh.
Luôn đặt trẻ nằm ngửa
Cho đến gần đây thì mọi người vẫn nghĩ rằng đặt trẻ nằm nghiêng không gây ảnh hưởng gì, song các khuyến cáo cho rằng nên đặt trẻ nằm ngửa. Vì nếu đặt trẻ nằm nghiêng thì chúng có thể bị lật úp xuống khi cựa quậy. Một số trẻ có thể phải mất thời gian để quen với việc nằm ngửa song các bậc phụ huynh hãy cố gắng kiên trì để tập thói quen này cho trẻ.
Đảm bảo rằng trẻ được ngủ ở một nơi an toàn
Sử dụng nôi hoặc cũi đủ tiêu chuẩn an toàn, đệm cứng và khăn trải giường vừa với trẻ, không sử dụng đệm nước hay đệm lông vũ.
Trẻ nên được ngủ ở cũi riêng
Đặt trẻ nằm cạnh sẽ giúp bạn thuận tiện hơn khi cho trẻ bú và chăm sóc trẻ. Song để trẻ ngủ cùng giường với bạn là không àn toàn. Bạn hãy để trẻ ngủ ở cũi riêng và đặt cũi gần giường của bạn.
Không để những vật dụng không cần thiết trong cũi
Đừng để nhiều chăn, đồ chơi, gấu bông trong cũi của trẻ vì chúng có thể khiến trẻ bị ngạt thở.
Video đang HOT
Đảm bảo trẻ được thoáng mát
Hãy từ bỏ thói quen quấn tã hoặc mặc quá nhiều quần áo cho trẻ. Quá nóng có thể làm tăng nguy cơ SIDS. Hãy cho trẻ mặc quần áo nhẹ, thoáng mát và giữ nhiệt độ trong phòng ở mức phù hợp.
Không hút thuốc lá
Tuyệt đối không hút thuốc lá trong thời gian mang thai. Ngoài ra, những người trong gia đình bạn cũng nên từ bỏ thuốc lá vì chúng có thể làm tăng nguy cơ SIDS ở trẻ.
Cho trẻ bú mẹ
Được bú mẹ không chỉ tốt cho sức khỏe tổng thể của trẻ, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng trẻ được bú mẹ ít nhất là 1 tháng giảm 50% nguy cơ SIDS.
Cân nhắc sử dụng núm vú giả
Các nghiên cứu cho thấy rằng ngậm núm vú giả có thể giảm nguy cơ SIDS ở một số trẻ. Song một số người lại cho rằng việc ngậm vú giả có thể khiến trẻ bỏ bú mẹ. Vì vậy, Hội Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo trẻ bú mẹ không nên ngậm vú giả trong vòng 1 tháng đầu sau khi sinh để học cách quen với việc bú sữa mẹ.
Đảm bảo rằng những người trông giữ trẻ hiểu về cách phòng ngừa SIDS! Khoảng 20% số trường hợp SIDS xảy ra khi trẻ ở cùng với người trông trẻ chứ không phải ở cùng cha mẹ. Vì vậy hãy đảm bảo rằng không chỉ riêng bạn mà cả những người bạn nhờ chăm sóc trẻ phải có hiểu biết về cách phòng ngừa SIDS.
Mặc dù trẻ nên được đặt nằm ngửa song điều này không đồng nghĩa với việc chúng không bao giờ được nằm úp. Hãy dành thời gian mỗi ngày để trẻ nằm úp dưới sự giám sát của bạn để củng cố các cơ ở vai, cổ và phòng ngừa bẹt đầu.
Anh Khôi
Theo Dân trí
Hội chứng ống cổ tay: một loại dịch bệnh nghề nghiệp
Một sai lầm phổ biến hiện nay là nhiều người bị hội chứng ống cổ tay với cảm giác tê các ngón tay khi đi xe máy hoặc khi thức dậy buổi sáng, đến mức làm rơi đũa ăn, nhưng cứ nghĩ mình bị tê thấp, phong thấp...
Hội chứng ống cổ tay tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng chậm chữa trị có thể gây tàn tật do tổn thương thần kinh, teo cơ gò cái.
Dấu hiệu mắc bệnh
Hội chứng ống cổ tay là một trong những chấn thương thầm lặng liên quan đến công việc nhiều nhất, khiến hơn 2 triệu người phải khám bác sĩ hàng năm ở Mỹ. Tại Việt Nam, số người mắc bệnh này cũng khá cao.
Thần kinh giữa ở mặt lòng cẳng bàn tay chui qua đường hầm ở cổ tay, nằm chung với chín gân gập ngón tay. Các gân này nằm trong những bao nhớt, gọi là bao hoạt dịch. Gân bị viêm sưng to lên và lấn lên rễ thần kinh giữa thần kinh giữa mềm mại bị chèn ép nặng hơn bởi những gân cứng như dây thừng do sưng nề, gây ra bệnh.
Các triệu chứng điển hình của hội chứng ống cổ tay là đau, tê nhức, châm chích ở các ngón tay, đặc biệt các ngón cái, ngón hai, ba và phân nửa ngoài ngón áp út, không bị một ngón rưỡi còn lại có thể thấy đau lan cổ tay, lòng bàn tay hoặc cẳng tay, nhất là về đêm cầm nắm trở nên vụng về đôi khi đau lên tới cẳng tay. Người bệnh nhẹ cảm thấy tê buốt như bị kim châm ở bàn tay nặng hơn thì thấy rất đau ở bàn tay, có khi bỏng rát và nhức nhối cả cẳng tay và cánh tay, tay yếu và tê cứng. Bệnh lâu ngày có thể gây teo cơ gò cái, khả năng cầm nắm yếu đi. Đo cơ điện đồ nơi tin cậy giúp thêm bằng chứng xác định chẩn đoán này. Gõ nhẹ vào nếp gấp lòng cổ tay - bàn tay cảm giác đau tê tăng lên.
Ai dễ mắc bệnh?
Dễ mắc bệnh này nhất là những người làm công việc đòi hỏi phải cầm nắm hay gập lòng cổ tay thường xuyên: thợ mộc, nhân viên văn phòng, nhà văn, nhà báo, người thu tiền quầy tạp hoá, vận động viên bóng bàn... Người dùng máy vi tính thường xuyên cũng dễ mắc hội chứng này, khi cầm nắm con chuột thường xuyên trong tư thế sai khiến sự căng giãn lặp đi lặp lại ở vùng cổ tay gây vi chấn thương. Tỷ lệ mắc ở phụ nữ cao hơn nam giới, nhất là phụ nữ thời kỳ mãn kinh, có thai, đang dùng thuốc uống tránh thai hoặc những người mắc bệnh mạn tính như viêm khớp, tiểu đường, suy thận...
Để phòng ngừa bệnh, cần cho các cơ bắp nghỉ ngơi thư giãn, năng xoa bóp để giúp phục hồi khả năng tuần hoàn, tăng tưới máu cho các nhóm cơ vùng vai, cổ, tay. Thường xuyên tập thể dục, nhất là với những người mà công việc bắt buộc phải ngồi nhiều, hoặc phải thực hiện những thao tác lặp đi lặp lại ở cổ tay.
Khi làm việc, cần chọn tư thế hợp lý, chẳng hạn ghế ngồi phải vừa tầm, mông cao hơn gối, lưng thẳng hay hơi ngả ra sau, tựa thắt lưng vào lưng ghế có ụ nhô ngang thắt lưng (lưng quần), hai chân chấm đất trong tư thế vững vàng nhưng thoải mái. Màn hình máy tính nên đặt ngang bằng hoặc thấp hơn tầm mắt một chút. Khi làm việc, những ngón tay có thể cong nhẹ hoặc duỗi ra mà không cần phải vặn cổ tay. Nếu được, để cổ tay tựa nhẹ lên tấm thảm chuột có một phần nhô lên bằng gel mềm. Bàn phím tốt nhất nên đặt thẳng hoặc thấp hơn khuỷu tay. Thực hiện chế độ ăn giàu vitamin, đặc biệt là vitamin nhóm B.
Điều trị cách nào?
Dễ mắc bệnh này nhất là những người làm công việc đòi hỏi phải cầm nắm hay gập lòng cổ tay thường xuyên: thợ mộc, nhân viên văn phòng, nhà văn, nhà báo, người thu tiền quầy tạp hoá, vận động viên bóng bàn... Người dùng máy vi tính thường xuyên cũng dễ mắc hội chứng này.
Phần lớn các trường hợp hội chứng ống cổ tay có thể khỏi khi người bệnh thay đổi môi trường làm việc, thay đổi cách sống cho khoa học và hợp lý. Những trường hợp hội chứng ống cổ tay thể nặng phải được điều trị nội khoa tích cực, nếu không chuyển biến thì phải can thiệp bằng phẫu thuật.
Điều trị bảo tồn bao gồm ý thức tránh các động tác sai, gập lòng cổ bàn tay lặp đi lặp lại mang nẹp lòng cẳng bàn tay vào đêm để tránh cổ tay gập uống thuốc kháng viêm không phải corticoid cho những ca nhẹ. Sử dụng hết sức dè dặt thuốc corticoid chích tại chỗ nếu thấy bệnh nặng không đáp ứng trị liệu bảo tồn nêu trên. Khi tê nặng ảnh hưởng công việc hay khi đã thấy teo cơ gò cái thì nên phẫu thuật giải ép cắt dải dây chằng mặt lòng cổ tay để giải phóng thần kinh giữa. Tập luyện lại bàn, ngón tay để sớm phục hồi vận động các ngón, đặc biệt làm nở lại cơ gò cái.
Cảnh giác với gãy đầu dưới xương quay Gãy đầu dưới xương quay hay "gãy cổ tay"- một loại gãy nếu được điều trị không tốt sẽ bị can lệch, gây ra hội chứng ống cổ tay - thường gặp ở vận động viên hay người có tuổi bị loãng xương. Đây là loại gãy đầu xa xương quay cùng phía ngón tay cái. Gãy đầu dưới xương quay xảy ra khi té chống bàn tay đang duỗi hay gập. Gãy có thể đơn giản thành hai đoạn, hay gãy phức tạp với nhiều mảnh xương bể. Điều trị cho gãy đơn giản thường là nắn và bó bột. Gãy phức tạp phải được điều trị bằng phẫu thuật, mổ nắn và cố định dụng cụ. Thời gian lành xương là sáu đến tám tuần lễ. Phải chăm sóc kỹ khi đang bó bột. Nếu bột lỏng có nguy cơ xương nắn rồi lại bị di lệch, tạo can lệch sau này vì thế phải giữ bột khô, dùng bao nilông che chắn kỹ khi lau mình hay tắm đừng kéo gòn bao che da trong bột đừng dùng vật lạ chọc vào trong bột để gãi ngứa giữ không cho bụi, cát rơi vào trong bột mời bác sĩ xem nếu bị ngứa hay da bị kích thích đừng bẻ gãy hay xén rìa bột mà không hỏi ý kiến bác sĩ. Khám bác sĩ ngay khi thấy các triệu chứng sau: đau gia tăng và cảm giác bột bó quá chặt tê và có cảm giác châm chích ở bàn tay cảm giác nóng, châm chích do da quá căng sưng quá mức bàn, ngón tay do mạch máu lưu thông kém mất điều khiển ngón tay.
Theo PGS.TS.BS Võ Văn Thành
Sài Gòn tiếp thị
Bài thuốc trị bệnh đau nửa đầu Theo Đông y, hội chứng đau nửa đầu (Meniere) thuộc chứng huyễn vựng gồm triệu chứng chóng mặt là chủ yếu kết hợp với các chứng ù tai, nôn mửa. Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh theo từng thể. Thể can phong: do can hỏa vượng, can dương bốc lên, can thận âm hư gây ra. Thường gặp ở người...