Phòng, chống dịch tại các khu công nghiệp ở Thái Nguyên
Các biện pháp phòng chống dịch, đặc biệt là tại các khu công nghiệp hiện được coi là điểm then chốt ở tỉnh Thái Nguyên.
Thái Nguyên có trên 100.000 công nhân đang làm việc ở 5 khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, Ban Quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên đã triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa, giám sát lây nhiễm bệnh viêm đường hô hấp cấp cho người lao động.
Mọi công nhân ra vào nhà máy đều được kiểm tra thân nhiệt
Không chủ quan, kiểm tra giám sát chặt chẽ các biện pháp phòng chống dịch bệnh được coi là yếu tố quan trọng trong sự thành bại đối với các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp tại Thái Nguyên trong thời điểm hiện nay.
Chính vì vậy, việc tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, người lao động trong công tác phòng, chống dịch luôn được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Cùng với đó, phương tiện y tế phòng tránh lây nhiễm bệnh như khẩu trang, dụng cụ đo thân nhiệt, nước rửa tay cũng được các doanh nghiệp đầu tư chu đáo.
Tại Khu công nghiệp Điềm Thụy, đầu giờ sáng, công nhân vào nhà máy đều phải xếp hàng để kiểm tra thân nhiệt, khẩu trang là thứ phải đeo bắt buộc đối với tất cả mọi người.
Chị Nguyễn Thị Yến, công nhân tại Khu công nghiệp Điềm Thụy cho biết, trong đợt dịch này đời sống kinh tế của công nhân nói chung khó khăn hơn, nhưng mọi người đều chung sức phòng chống dịch vì sức khỏe cả tập thể công ty.
Công ty KSD Vina chỉ là một trong số gần 30 đơn vị nằm trong Khu công nghiệp Điềm Thụy, một phân xưởng cũng có tới cả nghìn lao động. Vì vậy, chỉ cần một người nghi nhiễm COVID-19 thì cả nhà máy sẽ phải đóng cửa, cách ly, nên việc theo dõi giám sát y tế được lãnh đạo và công nhân thực hiện rất nghiêm túc và tự giác.
Chị Ngọc Phương Thảo, công nhân tại Công ty KSD Vina cho biết: “Khi có dịch bùng phát công ty khuyến khích công nhân đeo khẩu trang, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cao, được đo thân nhiệt theo thang giờ hàng ngày để kiểm tra”.
Video đang HOT
Chị Lê Thị Thu, Đại diện Công ty KSD Vina cho biết: Phòng chống dịch bệnh là sự sống còn của công ty. Nếu phát hiện trường hợp người lao động có triệu chứng bị ho, sốt, cúm sẽ yêu cầu nghỉ ở nhà và khuyến khích đến các cơ sở y tế thăm khám, hoặc lấy mẫu bệnh phẩm. Ngoài công việc ở công ty thì đơn vị cũng hướng dẫn cho công nhân đeo khẩu trang vệ sinh an toàn khi ở nhà bình thường.
Kiểm soát dịch bệnh được coi là nhiệm vụ sống còn của doanh nghiệp
Hiện có khoảng 600 người Hàn Quốc, 15 người Trung Quốc đang làm việc tại các khu công nghiệp ở Thái Nguyên. Đối với những trường hợp đi về từ vùng dịch, các đơn vị chức năng đã tổ chức cách ly 14 ngày theo quy định.
Theo ông Trần Văn Long, Phó Trưởng Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên, từ Tết Âm lịch, đơn vị đã chủ động phối hợp với các doanh nghiệp có người Trung Quốc, Hàn Quốc làm việc thực hiện các biện pháp kiểm soát, nắm bắt thời gian quay trở lại làm việc cũng như theo dõi tình hình sức khỏe của những người này.
Đồng thời tăng cường các biện pháp phòng, chống lây nhiễm dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp trong người lao động theo khuyến cáo của Bộ Y tế gửi đến các đơn vị, doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất trong khu công nghiệp. Tại khuôn viên bên ngoài các khu công nghiệp, ngoài việc tăng cường dọn dẹp, vệ sinh thông thường đã có kế hoạch sẽ phun thuốc khử trùng, tiêu độc.
“Trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp thì chúng tôi xây dựng phương án cách ly một doanh nghiệp hay cả khu công nghiệp. Chúng tôi cũng lên phương án tổ chức diễn tập tại một doanh nghiệp cụ thể”, ông Long nói.
Cho đến thời điểm hiện tại, Thái Nguyên chưa có trường hợp dương tính với COVID-19. Thái Nguyên cũng đã tổ chức giám sát, theo dõi sức khỏe của gần 4.000 trường hợp trở về từ các vùng lãnh thổ khác, thực hiện cách ly cho 171 người theo quy định. Các biện pháp phòng chống dịch, đặc biệt là tại các khu công nghiệp hiện được coi là điểm then chốt ở tỉnh Thái Nguyên./.
Mạnh Phương
Từ bản xuống phố: Chờ 'bà đỡ'
Làn sóng di cư của đồng bào dân tộc thiểu số về khu công nghiệp (KCN), đô thị được dự báo tiếp tục diễn ra trên quy mô lớn.
Đại diện Ủy ban Dân tộc cho biết, đây là vấn đề hệ trọng, sẽ được đánh giá toàn diện và đưa vào các chính sách, đề án trình Quốc hội vào tháng 5/2020 tới.
Làn sóng di cư tự phát, quy mô rất lớn
Ông Bùi Văn Lịch là Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc của Ủy ban Dân tộc - cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc của Chính phủ. Ông từng sống và làm việc ở Cao Bằng 17 năm, nhiều năm công tác tại Ủy ban Dân tộc nên có điều kiện theo dõi quá trình mưu sinh của đồng bào miền núi. Cầm trên tay 3 số báo có tuyến bài "Từ bản xuống phố", ông Lịch cảm ơn Tiền Phong đi vào vấn đề mà những người làm công tác dân tộc như ông đau đáu.
Mô hình nuôi dê phát triển kinh tế của anh Đường Văn Bính (người Thái) ở xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu (Sơn La). Mô hình này anh Bính học học khi về xuôi làm việc tại một quán bán thịt dê. Ảnh Nguyễn Thắng.
Ông Lịch kể, những năm 1960 của thế kỷ trước, Đảng Nhà nước chủ trương cuộc đại di dân từ miền xuôi lên miền núi. "Bộ Lao động thương binh và xã hội lúc đó có cả Cục Di dân phát triển kinh tế mới. Cuộc di dân đó giúp đất nước đưa những diện tích núi rừng, cao nguyên vào sản xuất, tạo nguồn lực cho kháng chiến chống Mỹ, ổn định cuộc sống cho cả người miền xuôi và tác động tích cực cho đồng bào miền núi" - ông Lịch nói.
Cuộc di cư mới đang diễn ra theo hướng ngược lại (từ miền núi xuống miền xuôi), không chủ trương, kế hoạch cụ thể nhưng số lượng lớn, đang tăng lên. "Đây thực sự là một làn sóng di dân mới, một sự vận động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước, đặc biệt là khu vực miền núi. Nếu như, cuộc di dân làm kinh tế mới trước là từ khu vực nông nghiệp ở đồng bằng lên miền núi, thì nay, những người làm nông nghiệp ở miền núi về đồng bằng làm công nhân. Đó là dòng chảy theo tiến trình chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp của đất nước" - ông Lịch phân tích.
Ông Lịch thừa nhận, dù quy mô lớn nhưng cuộc di dân mới này chưa được tổng kết, đánh giá và đó là một hạn chế trong công tác quản lý. Tuy nhiên, với thực tế đang diễn ra và được Tiền Phong phản ánh, cuộc di dân này có tác động rất lớn, âm hưởng chủ đạo là tích cực.
"Tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số chiếm 55,27 % tổng hộ nghèo toàn quốc, trong khi dân số đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14%. Vì thế, việc di dân, tìm được công việc mới, thu nhập tăng lên là điều hết sức quan trọng đối với họ" - ông Lịch nói. Theo ông, lý do quan trọng khác là đồng bào thiểu số đã bước vào giai đoạn thiếu đất sản xuất (do hạn chế trong chính sách giao đất, giao rừng, những người có điều kiện kinh tế tốt, "đại gia" mua lại đất của đồng bào...). Số lượng đồng bào thiểu số thiếu đất ước chừng 400.000 hộ. Và cuộc dịch chuyển lao động này bắt nguồn từ sức ép đó và cũng là giải pháp để giải quyết tình trạng thiếu đất, ông nói.
Băn khoăn giữ bản sắc
Chàng trai người Mông Lý A Pháo (ở Mù Càng Chải, Yên Bái) và nhóm bạn vướng vào lô đề, bài bạc trong cuộc mưu sinh nơi đô thị. Bố mẹ xa con, ông bà xa cháu hay những quán "karaoke tay vịn" ở bản là những hiện tượng tiêu cực của cuộc di dân mà Tiền Phong phản ánh. Theo ông Lịch, đó là những biểu hiện của việc xung đột văn hóa, xung đột môi trường sống.
"Ở miền núi an lành hơn thành phố. Đồng bào, thanh niên dân tộc chưa có kỹ năng sống để ứng phó với những phức tạp tại thành phố. Đặc biệt, việc nhiều đồng bào ngại mặc quần áo truyền thống, nói tiếng dân tộc, thậm chí không dám nhận mình là người dân tộc khi về xuôi là điều rất đáng lo ngại. Nếu một chính sách phát triển kinh tế nhưng để mất đi bản sắc, phong tục tập quán, đó là một chính sách dân tộc thất bại"- ông Lịch nói.
Ông Bùi Văn Lịch trao đổi về tuyến bài "Từ bản xuống phố". Ảnh Sỹ Lực.
Ông Lịch lấy ví dụ, tại Trung Quốc, ở các thành phố, khu công nghiệp có quy hoạch cho người cùng một dân tộc sinh sống trong các dân cư tập trung, xây dựng cả các công trình cộng đồng để họ trình diễn văn hóa truyền thống. "Đó là mô hình tốt nhưng ở ta, quy mô di cư của đồng bào còn ít, phân tán và nguồn lực của Nhà nước chưa đủ làm điều đó" - ông Lịch nói.
Theo ông Lịch, để tránh những hệ lụy trước mắt, Nhà nước cần làm "bà đỡ". Hiện ông Lịch là Tổ trưởng Tổ Thường trực xây dựng Đề án tổng thể Phát triển kinh tế-xã hội đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030 của Ủy ban Dân tộc. Đề án đã được Quốc hội thông qua (tại kỳ họp thứ 8, quốc hội khóa XIV). Ủy ban đang xây dựng các kế hoạch chi tiết hơn, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia để thực hiện đề án này. "Chúng tôi đã và sẽ cập nhật các vấn đề về xu hướng di dân này trong chương trình mực tiêu quốc gia trình quốc hội vào tháng 5 tới. Ít nhất, đó sẽ là cơ sở để đề nghị tăng cường những ưu đãi về đào tạo nghề, hướng nghiệp cho đồng bào" - ông Lịch nói.
Theo ông Lịch, việc có thể làm ngay là chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội địa phương bám sát nhu cầu để tuyên truyền, hướng dẫn, kết nối, quản lý tránh tình trạng dịch chuyển tự phát, mất kiểm soát.
Rèn dũa bản lĩnh cho thanh niên miền núi
Chị Nguyễn Thị Thu Vân (Trưởng ban Thanh niên nông thôn Trung ương Đoàn) nhiều năm gắn bó với thanh niên dân tộc nên cảm nhận rõ làn sóng dịch chuyển này. Thực trạng này không chỉ diễn ra ở các tỉnh miền núi phía Bắc mà còn ở miền Trung, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. "Việc này không chỉ giải quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập mà giúp các bạn thay đổi tư duy, tác phong làm việc và tiếp thu được cách làm kinh tế mới" - chị Vân nhận định.
Chị vân chia sẻ, tỉnh Đoàn ở một số địa phương, như Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Bình Dương triển khai các chương trình "Phòng trọ thân thiện" cho các công nhân thuê trọ. Theo đó, cán bộ đoàn phối hợp chính quyền địa phương để giới thiệu các phòng trọ đảm bảo an ninh trật tự, tổ chức các buổi sinh hoạt tại nơi ở trọ cho các bạn công nhân người dân tộc. "Các hoạt động này giúp thanh niên người dân tộc biết và tránh tệ nạn xã hội"- chị Vân nói.
Theo chị Vân, các cấp Đoàn ở các tỉnh miền núi sẽ tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ thanh niên dân tộc lập nghiệp. Trong đó, chú trọng "đón đầu" làn sóng nhiều bạn trẻ sau khi xuống thành phố, khu công nghiệp về lại quê nhà. Trong đó, Trung ương Đoàn cũng có các chương trình hỗ trợ thanh niên dân tộc khởi nghiệp với lãi suất ưu đãi. Thủ lĩnh đoàn viên nông thôn cũng chia sẻ, công nghệ thông tin, internet là một công cụ quan trọng để bạn trẻ người dân tộc nắm bắt và phát triển những cơ hội nghề nghiệp, lập nghiệp mới.
"Hiện nay có nhiều chương trình của Chính phủ hỗ trợ người dân tộc miền núi nhưng nhiều cơ quan, ban ngành quản lý chưa có sự liên kết chặt chẽ. Bởi vậy, cần có sự trao đổi thông tin, hợp tác sâu hơn giữa các bộ ngành có liên quan về vấn đề này" - chị Nguyễn Thị Thu Vân.
SỸ LỰC - NGUYỄN THẮNG - ĐỨC ANH
Bệnh viện Bạch Mai thông báo khẩn về việc khử khuẩn toàn bộ khuôn viên bệnh viện, dừng khám bệnh theo yêu cầu và tái khám Để đảm bảo an toàn cho người bệnh và người nhà người bệnh, Bệnh viện Bạch Mai triển khai đồng loạt các hoạt động trong tình hình dịch Covid-19 được dự đoán còn nhiều thay đổi. Bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện tuyến cuối, hàng ngày có hàng nghìn bệnh nhân đến khám và điều trị, bên cạnh đó cũng có hàng...