Phòng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh
Uốn ván trẻ sơ sinh là một bệnh nặng do hệ thần kinh trung ương của trẻ bị nhiễm độc bởi độc tố của uốn ván Clostridium tetani. Vì vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể trẻ qua rốn nên còn gọi là uốn ván rốn.
Nếu sản phụ sinh con tại nhà hoặc ở cơ sở y tế tuyến đầu hay trẻ bị đẻ rơi không bảo đảm điều kiện vệ sinh thì nguy cơ bị mắc uốn ván là điều khó tránh khỏi.
Đặc điểm bệnh uốn ván trẻ sơ sinh
Trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani tiết ra một loại ngoại độc tố mà các nhà khoa học đã tách ra về mặt hóa học gồn hai thành phần, một thành phần có tác dụng gây tan máu gọi là tetanolysin không có ý nghĩa lâm sàng và một thành phần gây co giật các cơ gọi là tetanospasmin; thực tế các triệu chứng cơ bản của bệnh uốn ván là do tetanospasmin gây ra.
Độc tố này tan trong nước, bị phá hủy khi đun nóng lên 70oC, có độc lực rất mạnh; chỉ cần một liều nhỏ khoảng 1/50.000ml là cũng đủ làm chết một con chuột. Thực nghiệm cho thấy độc tố đi từ vết thương có trực khuẩn uốn ván qua máu hoặc bạch huyết vào các trục của dây thần kinh ngoại vi rồi bám vào các trung tâm thần kinh.
Các nhà khoa học đều nhận thấy ái tính cao của độc tố uốn ván với tế bào thần kinh và khi độc tố đã bám vào tế bào thần kinh thì không thể tách ra được, điều này là cơ sở rất quan trọng trong điều trị.
Trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani
Trong uốn ván rốn trẻ sơ sinh, trực khuẩn Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể của trẻ ở rốn qua vết cắt bằng dụng cụ có mang nha bào uốn ván như dao, kéo hoặc do bông băng không được tiệt trùng tốt.
Thực tế đã ghi nhận có trường hợp cắt rốn bằng kéo không tiệt trùng kỹ hoặc chỉ ngâm nước nóng khoảng 5 – 10 phút; cắt rốn bằng que nứa, liềm cắt cỏ hoặc dao bổ cau trầu…
Mặc dù trực khuẩn uốn ván đã được phát hiện từ lâu nhưng bệnh uốn ván vẫn còn lưu hành là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ở nước ta bệnh uốn ván rốn vẫn còn gặp ở vùng nông thôn, miền núi do điều kiện tiệt trùng kém khi hỗ trợ sinh sản, thậm chí xử trí can thiệp không bảo đảm yêu cầu vệ sinh ở những trẻ bị đẻ rơi.
Triệu chứng lâm sàng và tiến triển bệnh
Về lâm sàng, uốn ván trẻ sơ sinh có thời kỳ ủ bệnh trung bình khoảng 5 – 12 ngày, đôi khi các triệu chứng xuất hiện sớm vào ngày thứ 2 hoặc muộn hơn đến ngày thứ 18. Bệnh khởi đầu với triệu chứng cứng hàm do cơ hàm bị co cứng, trẻ không há được miệng để bú sữa.
Cứng hàm là triệu chứng quan trọng với đặc điểm cứng hàm liên tục và tăng lên khi làm há miệng trẻ bằng đè lưỡi. Sau đó các cơ mặt, cổ, lưng, tứ chi đều trong trạng thái co cứng; trẻ nằm cứng đờ, tay nắm chặt, để chân duỗi thẳng, nét mặt đau khổ đặc biệt với dấu hiệu trán nhăn, môi chúm lại, hai mép bị kéo lên trên.
Trong tình trạng cứng đờ, trẻ có những cơn kịch phát gây co giật, thở không đều, da tím tái. Các cơ co giật có thể ngắn hoặc dài, nhanh hoặc chậm. Những cơn kịch phát này có thể gây ngừng thở nếu không được cấp cứu kịp thời. Những cơn kịch phát tự nhiên xuất hiện thường do sự kích thích của tiếng động, ánh sáng…
Ngoài các triệu chứng chính đã nêu, đa số trường hợp trẻ đều bị sốt; một số có thể sốt trên 41oC, một số khác lại có thân nhiệt xuống dưới 35oC và những rối loạn thân nhiệt như vậy có tiên lượng xấu. Đồng thời rốn bao giờ cũng bị nhiễm trùng nên ướt, chảy nước vàng hoặc có mủ; một số trẻ có triệu chứng viêm tấy đỏ.
Về xét nghiệm, do tình trạng nhiễm khuẩn rốn nên bạch cầu máu tăng, nhất là tăng bạch cầu đa nhân trung tính; việc xét nghiệm tìm trực khuẩn uốn ván ở rốn không cần thiết.
Về tiến triển bệnh, nếu có diễn biến tốt thì các cơ co giật và triệu chứng cứng hàm ở trẻ sẽ giảm dần, miệng có thể há ra dần. Bệnh kéo dài trung bình khoảng 3 – 4 tuần nhưng triệu chứng tăng trương lực cơ có thể kéo dài hơn 1 tháng.
Trường hợp có diễn biến nặng, có thể có biến chứng như viêm phế quản phổi, suy dinh dưỡng; nếu tiến triển xấu sẽ dẫn đến tử vong. Mặc dù hiện nay có những tiến bộ của y học hiện dại nhưng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh vẫn là loại bệnh gây tử vong cao, chiếm tỉ lệ khoàng 30 – 80% các trường hợp.
Trẻ thường tử vong trong khoảng 3 đến 6 ngày đầu ở bệnh viện do các cơn co giật làm ngừng thở. Những yếu tố có thể giúp bác sĩ chẩn đoán tiên lượng là nếu thời gian ủ bệnh ngắn thì tỉ lệ tử vong càng cao; những trẻ có biểu hiện triệu chứng uốn ván sau 7 ngày thường có tỉ lệ sống cao hơn trẻ có thời gian ủ bệnh dưới 7 ngày; đồng thời cơn kịch phát co giật càng nhiều và càng dài thì trẻ càng có nguy cơ ngừng thở nên tiên lượng xấu; ngoài ra trẻ có sự rối loạn thân nhiệt với nhiệt độ thấp dưới 35oC hoặc quá cao khoảng 40 – 41oC cũng đều có tiên lượng xấu.
Chẩn đoán và điều trị bệnh
Chẩn đoán bệnh uốn ván sơ sinh chủ yếu căn cứ vào các triệu chứng thực thể như cứng hàm, co cứng toàn thân, co giật từng cơn với dấu hiệu ngạt thở và nét mặt đau đớn rất đặc biệt của trẻ.
Trong trường hợp không điển hình, chẩn đoán phải phân biệt với các bệnh lý gồm: xuất huyết não và màng não xuất hiện trong vài ngày đầu sau khi sinh, trẻ co giật, tím tái, ngừng thở nhưng không cứng hàm liên tục, không có nét mặt đau khổ… Viêm màng não mủ ở trẻ sơ sinh với biểu hiện trẻ không bị cứng hàm ngoài cơn co giật, cần tìm ổ nhiễm khuẩn với các triệu chứng màng não như thóp phồng, cổ cứng, dấu hiệu Kernig.
Bệnh Tetani ở trẻ sơ sinh với biểu hiện cơn co giật, có dấu hiệu Chvosteck, trường hợp nghi ngờ phải xét nghiệm canxi huyết. Bị dị tật khớp hàm làm cho trẻ không há miệng được nhưng trường hợp này ít gặp.
Video đang HOT
Điều trị bệnh uốn ván trẻ sơ sinh nhằm mục đích trung hòa độc tố uốn ván còn lưu hành ở trong máu, săn sóc trẻ sơ sinh trong thời gian độc tố còn bám vào tổ chức thần kinh, điều trị vết thương rốn có trực khuẩn uốn ván gây bệnh.
Chủ yếu việc điều trị bệnh uốn ván trẻ sơ sinh bao gồm các phương pháp điều trị đặc hiệu, điều trị cơn co giật, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ.
Điều trị đặc hiệu bằng cách tiêm huyết thanh chống uốn ván. Có hai loại huyết thanh là huyết thanh chống uốn ván lấy từ người với ưu điểm không gây phản ứng, tồn tại lâu, tiêm từ 5.000 – 10.000 đơn vị và huyết thanh chống uốn ván lấy từ huyết thanh ngựa được dùng rộng rãi hơn với liều lượng tiêm từ 10.000 – 20.000 đơn vị; huyết thanh chống uốn ván thường được tiêm dưới da hay tiêm bắp thịt.
Điều trị các cơn co giật có vai trò khá quan trọng vì các cơ co giật có thể gây tử vong đột ngột. Có thể dùng các thuốc an thần và giãn cơ như: Penthobarbital và Secobarbital tiêm tĩnh mạch để làm giãn cơ bắp, sau đó dùng Barbiturate có tác dụng lâu như Phenobarbital.
Dùng Meprobamate làm tăng tác dụng của Barbiturate. Có thể cho thêm Chlorpromazine hoặc siro Chloral uống và Diazepam, cần theo dõi chặt chẽ vì thuốc Hydrate Chloral có tác dụng ức chế hô hấp. Lưu ý phải bảo đảm thường xuyên làm thông đường thở. Trường hợp nhẹ, dùng một hoặc hai loại thuốc an thần như Chlorpromazine, Diazepam; nếu có dấu hiệu suy hô hấp phải đặt nội khí quản, mỗi giờ cần hút đờm dãi cho đến khi giai đoạn cấp tính vượt qua.
Đối với trường hợp nặng, theo một số nhà khoa học phải đặt nội khí quản lúc đầu, sau đó mở khí quản đặt ống thông để thông khí cho cả hai phổi; phương pháp điều trị phải được một tập thể bác sĩ lành nghề theo dõi chặt chẽ.
Việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ cũng cần được quan tâm, phải đặt trẻ trong lồng ấp có nồng độ oxy và nhiệt độ thích hợp; nếu không có lồng ấp phải đặt trẻ trong một phòng yên tĩnh, ít ánh sáng.
Không nên lay động hoặc bế ẳm trẻ để tránh các cơ co giật. Trong giai đoạn đầu nếu trẻ co giật nhiều thì nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, bảo đảm nhu cầu về nước, điện giải và các chất dinh dưỡng; khi trẻ đỡ co giật nên cho trẻ ăn sữa mẹ qua ống thông mũi-dạ dày số lượng khoảng 50ml với 8 lần mỗi ngày.
Nếu không có điều kiện nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, nên đặt ống thông mũi-dạ dày ngay sau khi vào bệnh viện để có thể bơm sữa mẹ và cho uống thuốc kháng sinh, vitamin…
Tiêm chủng vắcxin cho người mẹ để phòng bệnh uốn ván cho trẻ sơ sinh là biện pháp hiệu quả
Điều trị vết thương ở rốn bằng cách rửa sạch rốn nhiễm trùng với nước oxy già và dùng kháng sinh. Kháng sinh chỉ có tác dụng kiềm chế trực khuẩn uốn ván nhưng không kiềm chế được việc sản xuất độc tố của vi khuẩn, đồng thời kháng sinh cũng có thể điều trị được tình trạng bội nhiễm.
Các biện pháp phòng bệnh
Biện pháp cơ bản nhất để phòng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh là cần tăng cao chi phí cho việc chủ động phòng ngừa bệnh uốn ván; phải loại trừ một số tập quán, thói quen sinh đẻ, đỡ đẻ phản khoa học; cần cải thiện điều kiện vệ sinh của các cơ sở y tế ở tuyến đầu nhất là phòng sinh của các nhà hộ sinh.
Đồng thời cần trang bị đầy đủ các phương tiện đỡ đẻ và phương tiện tiệt trùng theo quy định của ngành y tế; phải theo dõi tốt phụ nữ có thai, tránh tình trạng sinh đẻ tại nhà và trường hợp đẻ rơi; phải đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để có nữ hộ sinh lành nghề; tiêm chủng vắcxin đầy đủ cho trẻ em, đối với trẻ sơ sinh mắc bệnh uốn ván ngoài việc tiêm huyết thanh chống uốn ván cần tiêm giải độc tố uốn ván; lưu ý trong tuần lễ thứ 4 đến tuần lễ thứ 6 phải tiêm lần thứ hai và sau đó tiêm lần thứ ba lúc đó mới có miễn dịch chắc chắn phòng bệnh uốn ván.
Ngoài ra phải tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván cho sản phụ vì người mẹ có thể truyền cho thai nhi miễn dịch chống uốn ván, một số nhà khoa học đã đề xuất tiêm cả giải độc tố cho người mẹ; phương pháp này tỏ ra an toàn và có hiệu quả; các nhà khoa học cũng khuyến cáo nên tiêm 2 lần, khoảng cách giữa 2 lần tiêm càng lớn càng tốt, các kháng thể của người mẹ truyền sang con qua nhau thai sẽ tăng nếu khoảng cách giữa hai lần tiêm càng dài.
Đối với sản phụ chưa lần nào tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván thì tốt nhất là tiêm lần thứ nhất vào tháng thứ ba đến tháng thứ năm của thời kỳ thai nghén, lần thứ hai vào tháng thứ sáu hoặc tháng thứ bảy; tuy nhiên lần thứ nhất có thể tiêm muộn hơn nhưng lần thứ hai phải tiêm trước ngày sinh khoảng 2 tuần.
Lời khuyên của thầy thuốc
Để ngăn ngừa bệnh uốn ván trẻ sơ sinh có hiệu quả, cần tiêm vắcxin phòng bệnh với tổng số lần tiêm phòng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 15 – 35 tuổi là 5 mũi, trong đó tiêm phòng cho sản phụ lần đầu mang thai là 2 mũi cơ bản.
Lịch tiêm vắcxin phòng bệnh uốn ván cho phụ nữ và sản phụ vào các khoảng thời gian quy định:
Tiêm lần nhứ nhất (mũi tiêm 1) cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hoặc tiêm sớm cho sản phụ có thai lần đầu.
Tiêm lần thứ hai (mũi tiêm 2) ít nhất 1 tháng sau lần tiêm thứ nhất hoặc tiêm cho sản phụ mang thai trước khi sinh ít nhất 1 tháng.
Tiêm lần thứ ba (mũi tiêm 3) ít nhất 6 tháng sau lần tiêm thứ hai hoặc kỳ có thai lần sau.
Tiêm lần thứ tư ít nhất 1 năm sau lần tiêm thứ ba hoặc kỳ có thai lần sau.
Tiêm lần thứ năm (mũi tiêm 5) ít nhất 1 năm sau lần tiêm thứ tư hoặc kỳ có thai lần sau.
Lưu ý nên tiêm nhắc lại mũi thứ 6 khi thời điểm tiêm mũi thứ 5 đã trên 10 năm.
Theo phunusuckhoe
Phải làm gì khi bạn nhậu bất tỉnh vì say?
Hy vọng rằng bạn không bao giờ rơi vào tình trạng sợ hãi khi một người bạn trong cuộc nhậu bất tỉnh vì say xỉn.
Thường thì một đêm nhậu say sẽ chỉ kết thúc bằng một buổi sáng nôn nao khó chịu. Nhưng cách nhìn nhận chung của xã hội đối với rượu bia có thể khiến những nguy cơ tiềm ẩn của việc uống quá nhiều, như mất ý thức, dễ dàng xảy ra.
Bạn có thể đã biết rằng bất tỉnh vì uống quá nhiều rượu là triệu chứng của quá liều rượu, còn được gọi là ngộ độc rượu. Như Viện quốc gia về lạm dụng rượu và nghiện rượu Mỹ (NIAAA) giải thích: quá liều rượu không có nghĩa là ai đó quá say. Nguy cơ sức khỏe này xảy ra khi mức độ nhiễm độc ở một người cản trở các chức năng sinh lý cơ bản giúp họ duy trì sự sống. Trung bình, mỗi ngày ở Mỹ có 6 người chết vì ngộ độc rượu, theo số liệu mới nhất của CDC.
Cho dù bạn có nhận thức như thế nào về những mối nguy hiểm tiềm ẩn của rượu, tình huống một bạn nhậu bất tỉnh vì rượu có thể biến nguy cơ về mặt lý thuyết trở thành một nguy cơ thực tế và đáng sợ.
Có những lý do khiến bạn do dự khi hành động. Bạn có thể không chắc chắn liệu người đó thực sự bị bất tỉnh hay họ chỉ ngủ say và hoàn toàn ổn. Bạn cũng có thể lo lắng rằng việc xử lý chuyện đó sẽ khiến bạn bị coi là kẻ "lắm chuyện". Nhưng nếu ai đó bị bất tỉnh vì rượu, thì rất có khả năng họ đang gặp phải rắc rối đe dọa đến tính mạng.
Việc cứu sống họ có thể tùy thuộc vào bạn. Đây là cách nhận biết liệu cuộc sống của một người bạn có đang gặp nguy hiểm sau khi uống quá nhiều hay không và phải làm gì tiếp theo.
Tại sao rượu lại có thể làm cho người uống bất tỉnh nhân sự?
Tác dụng chính của rượu đối với não là an thần. Như CDC giải thích, rượu là một chất gây ức chế tác động đến hệ thần kinh trung ương, bao gồm não và tủy sống. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi những ảnh hưởng của rượu có thể tác động đến các chức năng tinh thần như ra quyết định cùng với các hoạt động thể chất như khả năng giữ tỉnh táo.
Ban đầu khi rượu được hấp thu và nồng độ cồn trong máu (BAC) tăng lên, chúng ta có thể cảm thấy kích thích. Điều này là do rượu tác động lên hệ thống "phần thưởng" của não do thúc đẩy giải phóng dopamin, một chất dẫn truyền thần kinh gây ra cảm giác hưng phấn. Nhưng càng uống nhiều, cơ thể càng tích tụ nhiều adenosine, một chất hóa học khiến bạn mệt mỏi, vì thế bạn có thể cảm thấy thư giãn nhẹ sau nửa ly rượu nhưng sẽ ngủ thiếp đi sau 2 ly.
Rượu cũng tác động đến các chất dẫn truyền thần kinh như glutamat, chi phối chức năng não. Nếu uống đủ rượu, tác động ức chế của nó có thể làm giảm nhịp thở và nhịp tim, đó là khi nhiễm độc rượu có thể đe dọa đến tính mạng.
Nhiễm độc rượu cũng có thể gây chết người một cách gián tiếp hơn. Một người bị say rượu có thể ngã và chấn thương sọ não, nghĩ rằng mình lái xe được và rồi gặp tai nạn, bất tỉnh và sặc chất nôn, hoặc rơi vào những tình huống khác đe dọa tính mạng.
Tất cả những người uống từ 4 ly rượu trở lên liền một lúc hoặc hay phải ở bên một người như vậy thì cần biết về bảng rượu trong máu cho thấy bao nhiêu "ly" chuẩn sẽ dẫn BAC nguy hiểm.
Một "ly" chuẩn là khoảng 340ml bia, 140ml rượu vang hoặc 43ml rượu mạnh như rượu rum hoặc rượu tequila.
Có bảng riêng cho nam và nữ, mặc dù vậy, hãy nhớ rằng những thứ như lượng thức ăn đã ăn và cách thức cơ thể chuyển hóa rượu có thể ảnh hưởng đến mức độ đúng của những bảng này đối với bạn. BAC khoảng từ 0,3% trở lên được coi là có thể gây tử vong.
Nếu không thể đánh thức được bạn nhậu, cần gọi cấp cứu ngay.
Người ngủ vì say rượu thì khá dễ đánh thức, trong khi người bất tỉnh vì say rượu sẽ rất khó đánh thức.
Nếu gọi tên và lắc vai họ không có tác dụng, bạn nên dùng khớp ngón tay chà xát vào xương ức hoặc véo dái tai người đó. Trong cả hai trường hợp, cần phải đủ mạnh để gây đau. Nếu người đó vẫn không phản ứng, họ có thể đã bất tỉnh và có nguy cơ tử vong.
Hãy nhớ rằng người uống rượu không nhất thiết phải bất tỉnh thì mới gặp nguy hiểm. Theo NIAAA, các dấu hiệu khác cho thấy bạn nhậu đã uống quá liều rượu và bạn nên gọi cấp cứu bao gồm:
Lú lẫnDa lạnh và ẩmDa xanh tái hoặc nhợt nhạtNhiệt độ cơ thể thấpCo giậtNônThở ít hơn 8 lần một phútDừng từ 10 giây trở lên giữa các lần thởGiảm phản xạ, như mất phản xạ hầu họng để ngăn ngừa sặc
Đừng tốn nhiều thời gian để đánh giá những dấu hiệu này. Nếu bạn phải mất hơn một vài giây để biết ai đó có thở hay không, và họ không tỉnh dậy khi bạn lay hoặc gọi to, hãy gọi cấp cứu.
Nếu bạn nhậu bị nôn trong khi bất tỉnh, hãy đặt họ nằm nghiêng để giảm khả năng bị sặc. Tốt nhất là một người khác sẽ gọi cấp cứu trong khi bạn làm điều này. Bạn cũng có thể để họ cúi về phía trước. Dù bằng cách nào, tốt nhất là để người đó trên đất để họ không có nguy cơ bị ngã và làm bị thương.
Khi nhân viên cấp cứu đến, hãy cho họ biết càng nhiều thông tin càng tốt, bao gồm người đó đã uống bao nhiêu rượu, loại rượu nào, những loại thuốc hay ma túy mà họ đã sử dụng (nếu có) và bất kỳ thông tin liên quan nào khác mà bạn có thể biết, ví dụ như người đó có bị bệnh gì hay không.
Theo dõi bạn nhậu ngay cả khi họ chỉ ngủ chứ không bị bất tỉnh.
BAC của một người có thể tiếp tục tăng ngay cả khi họ đã ngừng uống vì rượu sẽ tiếp tục được giải phóng từ dạ dày và ruột non vào máu.
Khi nồng độ cồn trong máu tăng lên, nguy cơ của hầu hết các vấn đề nghiêm trọng từ góc độ y học cũng sẽ tăng.
Điều đó có nghĩa là một người "chỉ say rượu" vẫn có thể diễn biên xấu thành ngộ độc rượu.
Một trong những sai lầm lớn nhất là nghĩ rằng người đó "chỉ là đang ngủ" và sau đó để họ một mình mà không theo dõi. Bạn bè thường quay về hàng giờ sau đó, chỉ để thấy rằng người bạn mà họ để lại đã ngừng thở hoặc bị sặc vì chất nôn của chính người ấy.
Theo NIAAA, các triệu chứng say rượu nghiêm trọng có thể dẫn đến ngộ độc rượu bao gồm:
Giảm rõ rệt khả năng nói, trí nhớ, thời gian phản ứng, thăng bằng, phối hợp động tác và sự chú ý.Không thể lái xe do các kỹ năng vận động bị suy giảm nguy hiểmRa quyết định nguy hiểm và phán đoán kémThoáng ngấtNônMất ý thức
Nếu bạn nhậu biểu hiện những triệu chứng này, họ có thể đang tiến tới tình trạng quá liều rượu đe dọa tính mạng. Hãy chuẩn bị để gọi cấp cứu ngay, cũng làm vậy bạn nhậu bị mất ý thức hoặc nôn.
Đừng để người say rượu ở một mình
Ngay cả khi người đó đang ngủ và không bị ngộ độc rượu, việc để họ một mình có thể khiến họ dễ bị xâm hại tình dục hơn tùy thuộc vào môi trường xung quanh. Càng đông thì càng an toàn, vì vậy hãy ở bên nhau nhau.
Bạn không bắt buộc phải ở bên người có nguy cơ trở thành nạn nhân để ngăn chặn vụ xâm hại tình dục. Người duy nhất có lỗi trong một vụ xâm hại là kẻ phạm tội. Nhưng thực tế không may là cho đến khi chúng ta, với tư cách là một xã hội, có thể tin tưởng rằng sẽ không ai gây ra những vụ xâm hại tình dục, còn thì các biện pháp an toàn như ở cùng nhau trong tình huống này là cần thiết.
Đừng e ngại khi đưa bản thân và bạn của mình ra khỏi tình huống một cách an toàn nhất có thể, ví dụ nếu bạn tham gia một bữa tiệc tại tư gia, bạn của bạn bị say và ngủ, bạn cũng không còn tỉnh táo, và người đưa bạn đến cũng đã ra về. Vì thế, để đảm bảo an toàn, bạn nên luôn biết chính xác vị trí của mình và giữ điện thoại còn pin phòng trường hợp bạn cần gọi trợ giúp, đặt xe hoặc cách nào đó để về nhà an toàn.
Khi nghi ngờ, luôn tìm ngay sự trợ giúp y tế cho một người bị bất tỉnh.
Ngay cả khi có nguy cơ đối mắt với những rắc rối về pháp luật, thì việc giúp đỡ một người bạn say rượu nguy hiểm vẫn rất đáng quý. Nó có thể cứu sống người bạn của bạn. Ngoài ra (và ít quan trọng hơn), hãy cân nhắc hậu quả nếu bạn không làm gì và trong trường hợp xấu nhất, ngời bạn ấy qua đời. Bạn không chỉ phải đối phó với sự mất mát đó, mà còn phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng hơn.
Biết giới hạn để tránh bị bất tỉnh do say rượu.
Theo Hướng dẫn chế độ ăn của Bộ Nông nghiệp Mỹ, người trưởng thành nên uống điều độ, có nghĩa là không quá một "ly" tiêu chuẩn mỗi ngày cho phụ nữ và hai cho nam giới. Nếu vượt khỏi giới hạn này, hãy làm theo các quy tắc sau để giữ an toàn nhất có thể:
Xen kẽ một ly rượu với một ly nước.Ăn trước và trong khi uống để không bị hấp thu rượu nhanh.Uống tối đa một ly mỗi giờ.Quyết định từ trước là mình sẽ uống bao nhiêu để không ảnh hưởng đến sự an toàn, sau đó thì ddwngd tiếp tục nâng con số đó lên khi bạn đã thực sự chếnh choáng. Một khi bạn biết cơ thể có thể xử lý thế nào, đừng thúc ép nó.
Cẩm Tú
Theo USA Today
Chất cấm trong tương ớt Chinsu bị thì hồi ở Nhật Bản gây hại sức khỏe thế nào? Theo thông tin trên báo Tuổi Trẻ, mới đây Trung tâm Y tế cộng đồng thành phố Osaka đã ra lệnh thu hồi toàn bộ 18.168 chai tương ớt nhập khẩu từ Việt Nam do có chứa chất cấm ở nước này. Tương ớt Chinsu bị thu hồi ở Nhật Bản Theo đó, những chai tương ớt Chinsu của công ty Masan bị...