Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đống ý phê duyệt Đề án thành lập thị trường carbon
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa có ý kiến về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đống ý phê duyệt Đề án thành lập thị trường carbon. Ảnh: TTXVN
Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ chế, chính sách tài chính để hình thành và vận hành thị trường carbon tại Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ; trên cơ sở đó chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan có liên quan xây dựng Đề án thành lập thị trường carbon trong nước đúng quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Theo Tờ trình của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, trong thời gian qua có nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong nước đã tham gia thực hiện các dự án theo cơ chế phát triển sạch, cơ chế tín chỉ chung, cơ chế trao đổi tín chỉ carbon theo chương trình hợp tác và một số cơ chế trao đổi tín chỉ carbon tự nguyện khác. Thông qua việc thực hiện dự án các cơ chế này, các doanh nghiệp đã có thêm nguồn tài chính từ việc trao đổi, bán tín chỉ carbon, được tiếp nhận công nghệ phát thải thấp từ các nước phát triển.
Để có cơ sở trao đổi, mua bán tín chỉ carbon giữa các tổ chức, doanh nghiệp trong nước, góp phần thúc đẩy thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, việc phát triển thị trường carbon trong nước đã được đặt ra từ năm 2011 tại Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới, ban hành kèm theo Quyết định số 1775/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Phát triển thị trường carbon trong nước được coi là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nêu tại Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương năm 2013, Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2016.
Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam chưa có nghĩa vụ bắt buộc phải cắt giảm phát thải khí nhà kính nên các doanh nghiệp không có nhu cầu mua tín chỉ carbon mà chỉ được trao đổi theo các cơ chế hợp tác với quốc tế.
Theo yêu cầu của Thỏa thuận Paris, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ bắt buộc giảm phát thải khí nhà kính kể từ năm 2021 theo đóng góp do quốc gia tự quyết định, đặc biệt cần nỗ lực thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0″ vào năm 2050 theo cam kết tại Hội nghị COP 26. Các công cụ định giá carbon cần được triển khai áp dụng ở nước ta, trong đó có việc phát triển thị trường carbon trong nước.
Video đang HOT
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon; lộ trình và thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước đã được quy định tại Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon.
Theo Luật Bảo vệ môi trường, việc phát triển thị trường carbon trong nước bao gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon. Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường carbon trong nước.
Triển khai các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và phát triển thị trường carbon là xu thế tất yếu của thế giới. Để thực thi có hiệu quả quy định của Luật Bảo vệ môi trường về tổ chức và phát triển thị trường carbon, việc xây dựng và thực hiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm cụ thể hóa các nội dung, hoạt động cần triển khai để thiết lập và vận hành thị trường carbon.
Triển khai thực hiện tốt thị trường carbon giúp các doanh nghiệp và toàn xã hội thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với chi phí thấp, thúc đẩy phát triển công nghiệp phát thải thấp, chuyển đổi mô hình nền kinh tế theo hướng carbon thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính theo quy định của Thỏa thuận Paris.
Tháo gỡ các rào cản trong thực hiện Nghị quyết 128
Nghị quyết 128 của Chính phủ quy định tạm thời "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" (Nghị quyết 128) đã đưa ra những biện pháp phòng, chống dịch áp dụng thống nhất trên toàn quốc; là một chiến lược ứng phó với dịch bệnh của Chính phủ trong tình hình mới được nhiều người dân và doanh nghiệp đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, sau gần 20 ngày thực hiện, Nghị quyết đã cho thấy một số vướng mắc cần giải quyết nhanh chóng để phát huy hiệu quả cao hơn.
Phóng viên Báo Tin Tức ghi nhận ý kiến của chuyên gia, doanh nghiệp về nội dung này:
Ông Mạc Quốc Anh, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội: Một số nơi vẫn còn áp dụng một cách máy móc, gây khó khăn cho doanh nghiệp
Hiện nay các doanh nghiệp tại Hà Nội lưu thông bình thường, không gặp khó khăn gì, tuy nhiên còn có một số địa phương lân cận áp dụng tương đối máy móc. Ví dụ như nhiều doanh nghiệp thuộc Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội có trụ sở ở Hà Nội nhưng làm việc, nhà xưởng ở Hải Phòng, khi xuống nhà máy điều hành quản trị sản xuất kinh doanh thì gặp nhiều khó khăn trong việc di chuyển.
Hiện Hải Phòng đã gỡ dần vấn đề này nhưng chúng tôi mong rằng Nghị quyết 128 sẽ là công cụ, giúp thông thoáng trong áp dụng văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương xuống địa phương được đồng nhất.
Chúng tôi mong muốn việc này có sự vào cuộc của Mặt trận Tổ quốc các cấp để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát việc các địa phương thực hiện chủ trương, chính sách nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ như thế nào, để làm sao không gây khó khăn cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là về mặt lưu thông hàng hóa.
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia: Ba vướng mắc lớn cần giải quyết
Chúng tôi đã ngồi với khoảng 15 doanh nghiệp, hiệp hội khác nhau sơ kết việc thực hiện Nghị quyết sau hơn 10 ngày thì thấy cơ bản doanh nghiệp phấn khởi vì các bộ ngành địa phương vào cuộc chủ động và tích cực hơn so với trước đây, hiện tượng bế quan tỏa cảng hầu như không có hoặc còn thì tương đối ít.
Hiện nay doanh nghiệp đã quay trở lại sản xuất kinh doanh trong trạng thái bình thường mới với công suất thực hiện 50 - 70%, người dân cơ bản phấn khởi, đi lại thuận lợi hơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp và người dân vẫn kiến nghị 3 vướng mắc quan trọng.
Thứ nhất, vẫn còn tình trạng các tỉnh thành áp dụng tương đối khác nhau về Nghị quyết này, đâu đó vẫn còn có hiện tượng đứt gãy chuỗi cung ứng hoặc chuỗi lao động vì thực tế có một số lao động muốn quay trở lại TP Hồ Chí Minh làm việc nhưng qua tỉnh này, tỉnh kia thì lại có những yêu cầu khác nhau nên người lao động không quay trở về được doanh nghiệp ban đầu sản xuất kinh doanh, điều đó tiếp tục tạo ra sự tăng chi phí, thiếu lao động cho doanh nghiệp.
Thứ 2, người dân đi lại thuận lợi hơn nhưng đâu đó vẫn còn rào cản vì quy định xét nghiệm, giãn cách vẫn còn tương đối khác nhau. Chúng tôi cũng đã kiến nghị thời gian tới phải nhất quán thực hiện quyết liệt hơn nữa.
Thứ 3, qua khảo sát nhanh, về vướng mắc lớn nhất hiện nay là gì thì nhiều doanh nghiệp đều cho rằng còn 4 thứ. Đó là thiếu lao động, vì đa số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp dệt may, da giày, điện tử ở các tỉnh phía Nam, TP Hồ Chí Minh vẫn thiếu lao động trầm trọng, mới có 30 - 50% quay trở lại làm việc trong khi đó đơn hàng không thiếu.
Cùng với đó, mô hình áp dụng tại các địa phương hiện nay vẫn khác nhau, có nơi yêu cầu 3 tại chỗ, có nơi yêu cầu 1 cung đường 2 điểm đến, có doanh nghiệp thích nghi tốt, phù hợp nhưng cũng có những doanh nghiệp thấy thiếu phù hợp.
Đặc biệt, nguyên vật liệu đầu vào thời gian qua tăng rất nhiều, cả giá xăng dầu... đều khiến tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Về tài chính, dòng tiền, doanh nghiệp mong muốn Chính phủ cho phép thực hiện những gói hỗ trợ thời gian vừa qua khẩn trương hơn, nhanh hơn, quyết liệt hơn vì nay còn một số gói hỗ trợ triển khai tương đối chậm. Ví dụ như gói cho vay trả lương lãi suất 0% đến tháng 9 vừa qua mới giải ngân được khoảng 450 tỷ, chiếm 6% là rất chậm.
Đồng thời, doanh nghiệp và người dân cũng mong muốn có gói hỗ trợ lớn hơn để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay phải tập trung khôi phục sản xuất kinh doanh.
Cần 78 trạm tự động thu phí ôtô vào nội đô Hà Nội từ năm 2025 Nhằm hạn chế ôtô vào nội đô để giảm ùn tắc giao thông, Hà Nội cần bố trí 78 trạm thu phí tự động để có thể triển khai từ năm 2025. Đường Nguyễn Trãi (Hà Nội) là trục chính nối trung tâm Hà Nội với Hà Đông thường xảy ra ùn tắc, ảnh chụp sáng 26-4-2021 - Ảnh: HÀ QUÂN Đó là...