Phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030
Ngày 23/4, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định số 508/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.
Cán bộ Sở Tài chính và Cục Thuế tỉnh Yên Bái hướng dẫn các thủ tục hành chính tại Trung tâm hành chính công của tỉnh. Ảnh: Tiến Khánh/TTXVN
Theo đó, Chiến lược hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế của Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế tốt theo thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, bao gồm các sắc thuế, phí, lệ phí chủ yếu sau đây: Thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế bảo vệ môi trường; các khoản phí, lệ phí và thu khác thuộc ngân sách nhà nước.
Về quy mô thu ngân sách từ thuế, phí, bảo đảm duy trì tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước từ thuế, phí ở mức ổn định, hợp lý và phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từng giai đoạn 5 năm 2021 – 2025 và 2026 – 2030, trong giai đoạn đầu tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19.
Hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định pháp luật Việt Nam, trọng tâm là thể chế quản lý thuế, nguồn nhân lực và công nghệ thông tin.
Đến năm 2025, mức độ hài lòng của người nộp thuế với sự phục vụ của cơ quan thuế đạt tối thiểu 90%; tỷ lệ hỗ trợ người nộp thuế được thực hiện qua phương thức điện tử đạt tối thiểu 70%.
Tỷ lệ hồ sơ đăng ký thuế được cơ quan thuế giải quyết trực tuyến mức độ 3 và 4 trên tổng số hồ sơ nhận được đạt tối thiểu 80%; tỷ lệ khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn, giảm thuế bằng phương thức điện tử của người nộp thuế là doanh nghiệp, tổ chức đạt tối thiểu 98%; của cá nhân đạt tối thiểu 85%; tỷ lệ hồ sơ hoàn thuế, miễn, giảm thuế của người nộp thuế được cơ quan thuế giải quyết và trả kết quả đúng hạn đạt tối thiểu 98%.
Tiến tới áp dụng một mức thuế giá trị gia tăng
Một trong các giải pháp thực hiện Chiến lược là cải cách chính sách thuế. Cụ thể, đối với thuế giá trị gia tăng, mở rộng cơ sở thuế thông qua giảm nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng và nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 5%; tiến tới cơ bản áp dụng một mức thuế suất; nghiên cứu tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng theo lộ trình; rà soát điều chỉnh ngưỡng doanh thu áp dụng phương pháp khấu trừ cho phù hợp với thực tế; nghiên cứu áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu đối với người nộp thuế có doanh thu dưới ngưỡng hoặc không đủ điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ.
Bên cạnh đó, hoàn thiện các quy định liên quan đến thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, đảm bảo phản ánh đúng bản chất và phù hợp thông lệ quốc tế. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về khấu trừ thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng theo hướng đơn giản, minh bạch và đồng bộ với các quy định của pháp luật có liên quan.
Video đang HOT
Xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối với thuốc lá, bia, rượu
Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để điều tiết tiêu dùng phù hợp với sự dịch chuyển về xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo vệ môi trường; xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu để hạn chế sản xuất, tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế; rà soát điều chỉnh mức thuế tiêu thụ đặc biệt một số mặt hàng để phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030; nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và mức thuế tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tiếp tục thu gọn số lượng mức thuế suất để đơn giản biểu thuế nhập khẩu, phấn đấu đến năm 2025 số lượng mức thuế suất thuế nhập khẩu giảm từ 32 mức hiện nay xuống còn khoảng 25 mức vào năm 2025 và 20 mức vào năm 2030.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích gia tăng giá trị nội địa, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô; có chính sách ưu đãi phù hợp để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ và các lĩnh vực ưu tiên, đảm bảo phù hợp với các định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và các cam kết quốc tế. Nghiên cứu sửa đổi các quy định về hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, nhập khẩu tại chỗ và các quy định liên quan đến khu phi thuế quan, đảm bảo đồng bộ với quy định của pháp luật có liên quan, hạn chế gian lận thương mại, trốn thuế.
Ưu đãi thuế thu nhập đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, rà soát để sửa đổi hoặc bãi bỏ ưu đãi miễn, giảm thuế không còn phù hợp với yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập quốc tế; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với chính sách miễn, giảm thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế để áp dụng ổn định trong trung và dài hạn; thực hiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đồng thời, chuyển trọng điểm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đầu tư vào những ngành, nghề mũi nhọn và những địa bàn cần khuyến khích đầu tư. Mở rộng cơ sở thuế phù hợp bối cảnh kinh tế – xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế; thực hiện các tiêu chuẩn phòng, chống chuyển giá, chống xói mòn nguồn thu theo thông lệ quốc tế.
Đối với thuế thu nhập cá nhân, rà soát bổ sung đối tượng chịu thuế; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng điều chỉnh số lượng và các mức thuế suất phù hợp với thu nhập chịu thuế phù hợp với bản chất của từng loại thu nhập, tạo điều kiện đơn giản trong quyết toán thuế thu nhập cá nhân cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế, ngăn chặn các hành vi trốn, tránh thuế; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về miễn, giảm thuế phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và thông lệ quốc tế.
Đối với thuế tài nguyên, nghiên cứu sửa đổi quy định, giá tính thuế tài nguyên, sản lượng tài nguyên tính thuế; sửa đổi khung thuế, mức thuế và miễn, giảm thuế tài nguyên theo hướng minh bạch, rõ ràng, đảm bảo chính sách thuế tài nguyên tiếp tục là công cụ hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ tài nguyên, khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, khuyến khích chế biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên.
Nghiên cứu tăng mức điều tiết đối với đất và bổ sung thu thuế đối với nhà
Đối với các loại thuế liên quan đến tài sản (bao gồm cả thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp), tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025 để góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tổng kết, đánh giá tổng thể tình hình thực hiện chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hoàn thiện theo hướng tăng mức điều tiết đối với đất và bổ sung thu thuế đối với nhà nhằm khuyến khích sử dụng nhà, đất có hiệu quả, góp phần hạn chế đầu cơ nhà, đất, đảm bảo động viên nguồn thu hợp lý, ổn định cho ngân sách nhà nước, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Đồng thời, xây dựng chính sách thuế theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ xác định rõ đối tượng chịu thuế tài sản, số thuế phải nộp, đồng bộ với quy định của pháp luật về đất đai và quy định của pháp luật có liên quan.
Đối với thuế bảo vệ môi trường, nghiên cứu mở rộng đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa gây ô nhiễm môi trường; nghiên cứu để điều chỉnh khung và mức thuế bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo chính sách thuế bảo vệ môi trường là một công cụ kinh tế quan trọng góp phần hạn chế việc nhập khẩu, sản xuất và sử dụng hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.
Đối với phí và lệ phí và thu khác thuộc ngân sách nhà nước, rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật phí và lệ phí theo hướng khai thác hiệu quả nguồn thu phí, lệ phí từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường; thực hiện lộ trình tăng mức thu phí nhằm từng bước tính đủ chi phí trong mức thu phí; đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công, khuyến khích thúc đẩy xã hội hóa cung cấp dịch vụ công; tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng nguồn lực của xã hội và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời đảm bảo phù hợp với chủ trương tổ chức, sắp xếp lại bộ máy cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng khoản thu hoặc thuế đối với các hoạt động, hình thức kinh doanh mới phù hợp với thực tế phát triển, đảm bảo quyền thu thuế, đánh thuế của Việt Nam phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn và theo thông lệ quốc tế. Rà soát, hoàn thiện chính sách về thu khác thuộc ngân sách nhà nước bảo đảm phù hợp với thực tế và đồng bộ với pháp luật chuyên ngành.
Giảm thuế GTGT - Mũi tên trúng nhiều đích
Theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình vừa được Chính phủ ban hành, một trong những giải pháp được thực thi ngay đó là giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ mức 10% xuống 8%.
Đây được xem là quyết sách mang tính đột phá và hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế đang cần thêm những động lực để tạo đà tăng trưởng và bứt phá sau đại dịch COVID-19.
Cán bộ Sở Tài chính và Cục Thuế tỉnh Yên Bái hướng dẫn các thủ tục hành chính tại Trung tâm hành chính công của tỉnh. Ảnh minh họa: Tiến Khánh/TTXVN
Nhiều ý kiến cho rằng, trước đây trong bối cảnh dịch bệnh, khi có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn để nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh thì chỉ một số ít đối tượng được hưởng lợi. Đó có thể là những doanh nghiệp có thu nhập và có lợi nhuận song vẫn được hưởng các ưu đãi về thuế. Trong khi đó, hàng loạt doanh nghiệp khác, dù là vì lý do này hay lý do khác, không đủ các tiêu chuẩn hay điều kiện quy định lại gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận các ưu đãi của Nhà nước. Họ vừa không có lợi nhuận, vừa không có thu nhập, doanh thu lại sụt giảm và đứng trước ngưỡng giải thể, phá sản nhưng cũng không đáp ứng các yêu cầu để hưởng sự ưu đãi, hỗ trợ. Như vậy có thể thấy, lần này việc giảm thuế giá trị gia tăng hay còn gọi là thuế gián thu - sắc thuế có số thu lớn nhất trong thu ngân sách Nhà nước, chính là một lựa chọn sáng suốt.
Theo các chuyên gia tài chính, mức giảm tới 2% tức là thu 5 đồng thuế giá trị gia tăng thì sẽ miễn 1 đồng, là con số không nhỏ và chắc chắn mọi đối tượng của nền kinh tế sẽ đều được hưởng lợi.
Theo lý giải của chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, tác động tốt đầu tiên, đó là gần như toàn bộ giao dịch trong nền kinh tế được hưởng ưu đãi hỗ trợ, trừ một số đối tượng theo quy định. Đây là thuế gián thu mà người tiêu dùng cuối cùng cần phải nộp. Do đó, người được hưởng lợi lớn nhất và trực tiếp nhất chính là người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thì việc giảm thuế giá trị gia tăng cũng sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào; nhờ đó, có thể giảm bớt giá thành sản phẩm. Nhưng quan trọng hơn nhiều là nhờ việc giảm thuế, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Cùng với đó, doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội mở rộng quy mô, doanh thu, thị trường và khả năng tiêu thụ,...
Trong suốt hai năm qua, dưới tác động của dịch bệnh, tổng cầu tiêu dùng trong nước được thể hiện bằng chỉ số tổng mức bán lẻ và doanh thu hàng hóa dịch vụ tiêu dùng toàn xã hội. Nếu trước dịch bệnh, mỗi năm tăng trưởng tổng cầu tiêu dùng cả nước trên dưới 10%, có những năm cao lên tới từ 12 - 13%, nhưng năm 2021, chỉ số này giảm tới gần 10%. Do đó, việc giảm thuế giá trị gia tăng sẽ giúp nền kinh tế có điều kiện và cơ hội để phục hồi lại tổng tiêu dùng trong nước nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tốt hơn.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, khi tiến hành giảm thuế giá trị gia tăng, ngân sách Nhà nước sẽ hụt thu khoảng 49.000 tỷ đồng. Nhưng số tiền này sẽ "nằm lại" trong túi của các hộ gia đình, các cá nhân và cả doanh nghiệp. Song lượng tiền ấy sẽ tiếp tục tiêu dùng và lưu thông ra ngoài thị trường lên cấp số nhân, thậm chí có thể nhiều hơn.
Trong bối cảnh dịch bệnh liên tục và kéo dài suốt 2 năm qua, dù đã có không ít chính sách hỗ trợ, an sinh xã hội, bổ sung thu nhập cho người lao động... nhưng thực tế cho thấy, vẫn có hàng chục triệu người lao động bị giảm thời gian làm việc, giảm thu nhập; hàng triệu người mất việc làm. Vì thế, trong xu hướng này, nếu giá cả hàng hóa không tăng, mà còn giảm nhờ vào ưu đãi của chính sách thuế gia tăng sẽ tạo nên sức ảnh hưởng lớn và tác động tới đời sống của toàn xã hội.
Từ góc độ doanh nghiệp, bà Lê Thị Hương Giang, Tổng Giám đốc, Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Tin học An Phát cho hay, dịch bệnh đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của An Phát. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng cao, chuỗi cung ứng bị đứt gãy và thiếu hụt. Nhiều điểm bán hàng của An Phát đã phải tạm thời đóng cửa.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, An Phát hầu như nhận được rất ít sự hỗ trợ từ các chính sách ưu đãi từ Nhà nước, nhưng để duy trì hoạt động, tồn tại và phát triển, An Phát đã phải thay đổi chiến lược kinh doanh, chuyển hướng giao dịch qua các sàn thương mại điện tử hoặc cung cấp dịch vụ trực tuyến. Cùng với đó, thay đổi quy trình phục vụ và hệ thống bán để thích nghi với trạng thái bình thường mới và thúc đẩy mạnh mẽ các dịch vụ khác để bù đắp tổn thất.
Chính sách giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% là nhắm tới người tiêu dùng, nhưng qua đó, doanh nghiệp cũng được hưởng lợi gián tiếp. Là doanh nghiệp thương mại nên bản thân An Phát cũng là một khách hàng của các đối tác và nhà cung cấp. Giảm thuế giá trị gia tăng sẽ giúp An Phát tiết kiệm khá nhiều trong những khoản thuế phải nộp. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp gia tăng tích lũy, bồi đắp nội lực, nâng cao sức cạnh tranh mà hàng hóa, sản phẩm do An Phát bán ra cũng được kết cấu lại giá thành hợp lý hơn, song song với các chương trình ưu đãi, khuyến mại khác để kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Có thể đánh giá rất cao chính sách hỗ trợ này từ phía Nhà nước, bởi không chỉ các tập thể mà kể cả từng cá nhân khi tham gia thương mại, dù với tư cách là người bán hay người mua sẽ đều được hưởng lợi. Đây cũng được xem là chính sách kích cầu hữu dụng, hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tiêu dùng của người dân trong bối cảnh khó khăn về thu nhập, phải thắt chặt chi tiêu như hiện nay, bà Giang nhấn mạnh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các doanh nghiệp trong nước; đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn cần nhiều hơn nữa so với việc chỉ giảm thuế giá trị gia tăng. Bởi giảm thuế sẽ chỉ có tác dụng làm giảm đi một lượng vốn nhất định khi phải mua hàng hóa đầu vào. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt vẫn cần được hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp và những điều kiện đang áp dụng hiện nay như doanh thu dưới 200 tỷ đồng và thấp hơn năm 2019 thì không dễ thực hiện.
Khá phấn khởi với tấm hóa đơn mua hàng tại siêu thị Vinmart, bà Nguyễn Thị Thảo, cư dân quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) cho biết, hàng tháng gia đình chi tiêu khoảng 10 triệu đồng cho việc đi chợ qua kênh siêu thị. Khá bất ngờ khi thấy lượng hàng mua mỗi lần không thay đổi nhưng tổng hóa đơn thanh toán được giảm tới hơn 30 nghìn đồng nhờ vào việc giảm thuế giá trị gia tăng. Mặc dù, chưa phải số tiền lớn song nếu mỗi tháng trung bình đi chợ khoảng 5-7 lần thì gia đình cũng tiết kiệm được một khoản đáng kể và để dành chi thêm cho các hạng mục khác cần tiêu dùng.
Bà Thảo bày tỏ, chưa biết chủ trương này sẽ tiếp tục kéo dài tới khi nào nhưng đối với người lao động rõ ràng sẽ tác động tích cực tới đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ. Mong rằng, Chính phủ sẽ nghiên cứu nhiều chính sách tương tự để bất kỳ là ai trong xã hội cũng đều được hưởng ưu đãi như nhau, góp phần ổn định và an sinh xã hội.
Để việc giảm thuế VAT không 'rối như canh hẹ' Việc giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) theo Nghị định 15/2022 nhận được sự đồng tình rất cao từ cộng đồng doanh nghiệp, nhưng trong quá trình thực thi có nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Không ít vướng mắc Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, doanh nghiệp, việc giảm thuế VAT giúp cho doanh nghiệp và người dân được...