Phát triển kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Nhu cầu logistics rất lớn
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (Word Bank), hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn/năm.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế quan trọng, tập trung sản xuất lương thực lúa gạo và có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp. Chính vì thế, Đồng bằng sông Cửu Long là nơi sản xuất chính nông sản của cả nước, đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và gần 70% các loại trái cây của cả nước. Với quy mô sản xuất lớn và đang tăng nhanh như hiện nay, nhu cầu logistics tại Đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn.
Quang cảnh cảng Cát Lái, TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Tiến Lực/TTXVN
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (Word Bank), hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn/năm. Với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu hàng năm đạt hơn 31 tỷ USD thì nông sản xuất khẩu chiếm 75%, còn lại là các mặt hàng công nghiệp khác.
Từ những số liệu về lượng hàng và giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tiêu thụ nội vùng cho thấy một nhu cầu rất lớn về vận chuyển hàng hóa cho vùng.
Tuy nhiên, chỉ có 20% hàng hóa được vận chuyển qua hệ thống cảng biển của vùng, còn lại 80% được vận chuyển bằng đường bộ, chủ yếu để đến các cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa- Vũng Tàu. Ngược lại, toàn bộ sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài cũng vận chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh về các tỉnh.
Mặt khác, trên 85% cảng, bến của các cảng biển Đồng bằng sông Cửu Long có quy mô rất nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu bốc xếp hàng rời, thiếu các cảng chuyên dùng cho container.
Từ thực tế trên, chi phí logistics tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là cao nhất, chiếm đến 30% giá thành sản phẩm. Đặc biệt là doanh nghiệp nông nghiệp tự cung, tự cấp hạ tầng logistics cho sản phẩm của mình. Điều này làm gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, giảm mức cạnh tranh của nông sản vùng này nói riêng và nông sản Việt nói chung.
Tại hội thảo “ Nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long dưới góc độ logistics” được tổ chức mới đây, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, vận chuyển hàng hóa từ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long gây kéo dài về thời gian, tốn kém chi phí cho các doanh nghiệp, bởi đặc thù xuất khẩu thủy sản là toàn bộ hàng hóa phải đông lạnh và cần vận chuyển tức thì, rút ngắn thời gian càng nhiều càng tốt, ít khâu trung chuyển, đảm bảo nhiệt độ cho container.
Logistics trong nông nghiệp được hiểu là một chuỗi các hoạt động: lưu trữ hàng hóa, bao bì, đóng gói kho bãi, làm thủ tục hải quan, luân chuyển hàng hóa,… nhằm mục đích chuyển sản phẩm nông nghiệp từ nhà nông, người cung cấp đến người tiêu dùng trong và ngoài nước một cách nhanh, hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, báo cáo Kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm 2020 đã phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong các ngành lúa gạo, thủy sản, trái cây qua sơ đồ cụm ngành cho thấy có chung một điểm yếu đó là logistics.
Theo ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Cần Thơ (VCCI Cần Thơ), với vai trò là vựa lúa, vựa nông sản và vựa thủy sản lớn nhất cả nước, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang hình thành các kho lạnh chuyên dụng hiện đại phục vụ nhu cầu bảo quản các mặt hàng thế mạnh tại đây. Tính đến thời điểm hiện tại, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sở hữu khoảng 30% số lượng kho lạnh của khu vực phía Nam, chủ yếu phân bố tại Long An, Cần Thơ và Hậu Giang.
Video đang HOT
Mặc dù, hệ thống kho lạnh được nhiều doanh nghiệp đầu tư nhưng xét về tổng thể logistics ở Đồng bằng sông Cửu Long còn rất nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Hiện tại, Đồng bằng sông Cửu Long chưa có một trung tâm logistics đúng nghĩa, chỉ là những kho bãi tập kết hàng hóa, các kho lạnh, kho mát trữ hàng cho thuê của các doanh nghiệp đầu tư. Trung tâm logistics hạng 2 tại thành phố Cần Thơ được Thủ tướng phê duyệt nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai, làm cho các doanh nghiệp trong ngành logistics chưa có điều kiện thuận lợi tham gia đầu tư, phát triển hạ tầng vốn đang gặp khó khăn trong thời gian qua.
Chủ tịch VASEP Trương Đình Hoè cho biết, mong muốn lớn hiện nay của các doanh nghiệp ngành thủy sản là vận chuyển hàng hóa xuất khẩu thuận lợi, giảm chi phí, giảm thời gian vận chuyển.
“Theo các doanh nghiệp, nông hộ, hợp tác xã sản xuất ở Đồng bằng sông Cửu Long, nếu hệ thống kho bãi, đặc biệt là kho lạnh, kho mát được đầu tư thì nông hộ sẽ mạnh dạn trồng nhiều hơn, doanh nghiệp thu mua và lưu trữ ổn định được lượng hàng hóa xuất khẩu, điều tiết được giá cả, giúp nông sản được tiêu thụ ổn định hơn”, ông Nguyễn Phương Lam thông tin.
Tại diễn đàn Hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long vào ngày 26/5, Phó Trưởng ban kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong nhận định, phát triển hệ thống logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long là một giải pháp cấp bách hiện nay để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản Việt Nam nói chung và sự phát triển bền vững cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, góp phần thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển.
Tăng năng lực cảnh báo phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu
Bộ Công Thương đã và đang theo dõi biến động xuất khẩu của 36 mặt hàng và định kỳ đưa ra danh sách cảnh báo gồm 11 mặt hàng để thông tin cho các cơ quan chức năng, các hiệp hội, doanh nghiệp và các bên liên quan khác.
Bộ Công Thương cho biết, thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan liên quan xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm theo lộ trình tại Đề án 316 và thực hiện các nhiệm vụ của Đề án 824. Điều này nhằm tăng cường hơn nữa việc quản lý, giám sát các hành vi gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp để đảm bảo uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, ngăn chặn không để tình trạng gian lận xuất xứ của một bộ phận ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu làm ăn chân chính.
Các dây chuyền dệt may của Công ty Cổ phần dệt may Phú Hòa An tại KCN Phú Bài, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ảnh minh họa: Anh Tuấn/TTXVN
Theo Bộ Công Thương, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đặc biệt là tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA), kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng mạnh qua từng năm.
Nếu như năm 2001 kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mới đạt hơn 30 tỷ USD thì năm năm 2011 đã đạt 200 tỷ USD; năm 2021 đạt 668,5 tỷ USD. Về xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ mức 15 tỷ USD vào năm 2001 lên hơn 96 tỷ USD vào năm 2011 và đạt 336 tỷ USD vào năm 2021.
Với kết quả này, Việt Nam đã trở thành 1 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Xuất khẩu đã trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Cán cân thương mại hàng hóa đã có thặng dư, năm sau cao hơn năm trước.
Xuất khẩu tăng trưởng nhanh cho thấy năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều ngành đã cao hơn, hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập được và có chỗ đứng tại nhiều thị trường.
Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra áp lực cạnh tranh đối với các ngành sản xuất tại nước nhập khẩu, khiến các ngành sản xuất này có thể phải yêu cầu chính phủ sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ để bảo vệ mình.
Do đó, cùng với việc kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có khả năng trở thành đối tượng bị điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.
Trên thực tế, số lượng vụ việc phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của ta đã tăng nhanh trong những năm gần đây.
Tính đến hết quý I/2022, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã là đối tượng của 212 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài. Trong số đó, các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại chiếm 25 vụ và ngày càng có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây, đặc biệt trong bối cảnh xung đột thương mại Mỹ-Trung và khi Việt Nam tham gia nhiều FTA thế hệ mới.
Đáng lưu ý, khi các doanh nghiệp xuất khẩu của một nước bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, các doanh nghiệp này thường tìm cách khắc phục bằng việc chuyển sản xuất sang nước khác. Trong khi đó, với chính sách thuận lợi đối với đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang là một trong những lựa chọn của các doanh nghiệp đó để dịch chuyển sản xuất.
Thế nhưng, điều này khiến xuất khẩu từ Việt Nam gia tăng đột biến khiến Việt Nam dễ trở thành đối tượng theo dõi, điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ và bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại bổ sung hoặc chế tài xử phạt của nước nhập khẩu.
Đối với các ngành xuất khẩu của Việt Nam, việc bị nước ngoài điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp sẽ dẫn tới những tác động tiêu cực như ảnh hưởng đến ngành hàng liên quan và các doanh nghiệp sản xuất/ xuất khẩu chân chính.
Cùng với đó làm giảm uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mà lâu dài còn tác động tiêu cực tới sức cạnh tranh của cả nền kinh tế nước ta nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia hàng loạt FTA có yêu cầu cao về xuất xứ.
Với quyết tâm đấu tranh, ngăn chặn các hành vi lẩn tránh, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2019 phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ (Đề án 824) và Chính phủ ban hành Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2019 về một số biện pháp cáp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp.
Để triển khai Đề án 824, Bộ Công Thương đã và đang theo dõi biến động xuất khẩu của 36 mặt hàng và định kỳ đưa ra danh sách cảnh báo gồm 11 mặt hàng để thông tin cho các cơ quan chức năng, các hiệp hội, doanh nghiệp và các bên liên quan khác.
Trên cơ sở danh sách cảnh báo do Bộ Công Thương cung cấp, các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, Tổng cục Hải quan, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài.
Kết quả xác minh đã phát hiện một số doanh nghiệp cá biệt có vi phạm về xuất xứ hàng hóa hoặc chỉ thực hiện các công đoạn sản xuất có hàm lượng giá trị gia tăng không đáng kể tại Việt Nam. Từ đó, các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý phù hợp.
Cùng theo Bộ Công Thương, kể từ thời điểm lần đầu tiên Bộ Công Thương công bố danh sách cảnh báo vào tháng 7 năm 2019, tới nay đã có 7 sản phẩm nằm trong danh sách cảnh báo bị nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại. Cụ thể là gỗ dán có nguyên liệu làm từ gỗ cứng, đệm mút, lốp xe ô tô, ống đồng, mật ong, thép chống ăn mòn, gạch men.
Thông qua cảnh báo sớm, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp đã chủ động trong công tác ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài.
Hơn nữa, Bộ Công Thương đã sớm tiếp cận với các doanh nghiệp trong ngành để cung cấp thông tin, giúp các doanh nghiệp hiểu được các nguyên tắc, quy trình điều tra; công việc doanh nghiệp cần thực hiện; kịch bản có thể xảy ra. Nhờ đó, các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị để đáp ứng đầy đủ, chính xác nhất các yêu cầu của cơ quan điều tra nước ngoài.
Đặc biệt, Bộ Công Thương đã và đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng hợp tác về chống lẩn tránh và gian lận xuất xứ với các cơ quan liên quan của nước ngoài, đề xuất một số ý tưởng như cơ chế đăng ký xuất khẩu tự nguyện nhằm tăng cường sự phối hợp, chia sẻ thông tin của Việt Nam với các nước trong việc xử lý vấn đề này, nâng cao uy tín và thương hiệu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, để giúp các cơ quan chức năng tăng cường các hoạt động đấu tranh chống lẩn tránh thông qua gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp và hỗ trợ các doanh nghiệp có sự chuẩn bị trước, chủ động hơn trong việc xử lý, ứng phó với các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2020 phê duyệt Đề án Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại (Đề án 316).
ADVERTISING
X
Hệ thống này được xây dựng trên nguyên tắc theo dõi biến động xuất khẩu của những mặt hàng đã bị thị trường xuất khẩu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hoặc các biện pháp hạn chế thương mại khác với nước thứ ba nhưng chưa áp dụng biện pháp tương tự đối với Việt Nam.
Nếu xuất hiện những yếu tố rủi ro như xuất khẩu từ Việt Nam có sự tăng trưởng nhanh, hàng Việt Nam chiếm thị phần đáng kể tại thị trường xuất khẩu hay có những dấu hiệu cho thấy, các doanh nghiệp sản xuất tại thị trường xuất khẩu đang bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh từ hàng Việt Nam, hệ thống sẽ đưa những mặt hàng này vào danh sách cảnh báo khả năng bị điều tra phòng vệ thương mại bởi nước ngoài.
Đặc biệt, doanh nghiệp có thể chủ động cân nhắc để điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình một cách hợp lý nhằm tránh để ảnh hưởng lớn trong trường hợp hoạt động xuất khẩu có kết quả không mong muốn do biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài gây ra.
Theo đó, hoạt động cảnh báo sớm hỗ trợ doanh nghiệp dù mới được triển khai nhưng đã thu được một số kết quả tích cực ban đầu.
Chẳng hạn như việc Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm lốp xe, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chiếm 95,5% tổng kim ngạch xuất khẩu lốp xe của Việt Nam sang Hoa Kỳ không bị áp thuế chống bán phá giá.
Trong vụ việc Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm ống đồng, thuế chống bán phá giá đối với doanh nghiệp Việt Nam là 8,35%, thấp hơn nhiều so với mức do ngành sản xuất trong nước của Hoa Kỳ cáo buộc 110%.
Bên cạnh danh sách cảnh báo sớm, nhằm giúp doanh nghiệp và hiệp hội hiểu rõ hơn về quy định điều tra chống gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp và lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với các hiệp hội ngành hàng tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề để phổ biến các quy định về xuất xứ, quy định về phòng vệ thương mại đến các doanh nghiệp trong ngành.
Qua đó, để ngăn chặn từ đầu những hành vi khai báo thông tin không chính xác và việc tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp.
Bộ Tài chính đề nghị TP Hồ Chí Minh xem xét lại phí sử dụng hạ tầng cảng biển Bộ Tài chính vừa gửi UBND TP Hồ Chí Minh văn bản về việc xem xét lại phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển. Hàng hóa xuất khẩu qua cảng Cát Lái, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN Theo Bộ Tài...