Phát triển kinh tế vùng ĐBSCL: Hiện đại hóa khai thác hải sản
Với gần 32 km bờ biển, tỉnh Tiền Giang có điều kiện thuận lợi, thế mạnh để phát triển kinh tế biển; trong đó, nghề đánh bắt hải sản được xem là mũi nhọn.
Trong những năm gần đây, để hỗ trợ ngư dân bám biển đánh bắt hải sản ngoài khơi xa, góp phần khẳng định chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ ngư dân để hiện đại hóa phương tiện đánh bắt, có điều kiện khai thác ở những ngư trường xa hơn.
Phơi khô cá các loại tại làng nghề làm khô, mắm ở thị trấn Vàm Láng (huyện Gò Công Đông). Ảnh: Minh Trí/TTXVN
Vững vàng bám ngư trường
Theo thống kê của Chi cục Thủy sản tỉnh Tiền Giang, toàn tỉnh hiện có đội tàu đánh bắt hải sản chủ yếu khai thác khơi xa. Trong quý I/2022, sản lượng khai thác thủy sản đạt 39.738 tấn, giá các sản phẩm khai thác ổn định nên hầu hết đội tàu đánh bắt đều có lãi.
Huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang nằm ven biển Gò Công có nghề biển truyền thống từ lâu đời, phát triển mạnh với tổng cộng 930 phương tiện; trong đó, 2/3 phương tiện có công suất lớn, đánh bắt khơi xa.
Ông Nguyễn Văn Quý, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gò Công Đông cho biết, toàn huyện có 891 phương tiện khai thác hải sản, chủ yếu là đánh bắt xa bờ là 668 phương tiện cùng 223 phương tiện đánh bắt gần bờ, với sản lượng hàng năm đạt gần 35.000 tấn.
Ở xóm Lăng, xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông, có hai đội tàu đánh bắt xa khơi. Anh Nguyễn Văn Tuấn, thuyền trưởng tàu TG2995TS vừa trở về sau chuyến đánh bắt phấn khởi cho biết, chuyến này, tàu của anh đánh bắt được 12 tấn cá thu ngừ, ngừ bò, cá chuối… bán được với giá trung bình 50.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí của chuyến đi (gần 200 triệu đồng), mỗi thuyền viên được chia từ 15-20 triệu đồng.
Còn tàu của anh Nguyễn Văn Định, ấp 4, xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông, chủ tàu TG 93639TS có công suất 200 mã lực, trong chuyến đánh bắt lần trước nhờ trúng đậm nên mỗi thuyền viên được chia nhau khoảng 20 triệu đồng. Các tàu khác trong đoàn tàu ở ấp Lăng, xã Tân Phước đánh bắt xa khơi đều trúng đậm như vậy…
Nhằm nâng cao thời gian bám biển để khai thác đánh bắt ở ngư trường xa, Chi cục thủy sản tỉnh Tiền Giang đã vận động, hướng dẫn xây dựng các tổ hợp tác khai thác và đoàn kết sản xuất trên biển.
Đến nay, toàn tỉnh Tiền Giang có 11 tổ hợp tác khai thác thủy sản và 51 tổ đoàn kết sản xuất trên biển với 267 phương tiện. Mô hình các tổ đội này đã giúp nâng cao hiệu quả khai thác của đội tàu tăng thời gian bám biển, sản phẩm gửi vào bờ bán giá cao, thường xuyên hỗ trợ nhau khi gặp nạn trên biển, cũng như giúp các chủ phương tiện đối phó với giá xăng dầu vật tư tăng cao, giảm bớt chi phí.
Video đang HOT
Các tàu đánh bắt xa khơi trên biển của ấp Lăng, xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông đều hoạt động theo mô hình tổ khai thác vì các chủ tàu đều có họ hàng với nhau và hành nghề đánh bắt truyền thống lưới rê quàng lưu truyền đã 4 đời. Các tàu đều được trang bị máy thông tin tầm xa (ICOM) để liên lạc thường xuyên với nhau và liên lạc với đất liền, góp phần hạn chế thấp nhất những rủi ro… Cả đoàn tàu chia thành nhiều tổ đánh bắt; trong đó có vài chiếc luân phiên vận chuyển nhiên liệu, nước đá và thực phẩm ra; đồng thời thu gom cá từ các tàu khác trở về đất liền bán cho thương lái.
Để nghề khai thác hải sản phát triển bền vững
Ông Trịnh Công Minh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang cho biết, hoạt động khai thác thủy sản những năm qua đã được tỉnh Tiền Giang quan tâm đầu tư phát triển, trên cơ sở các nguồn lực sẵn có và sự vận dụng kịp thời, linh hoạt các chủ trương, chính sách của Trung ương.
Tỉnh Tiền Giang đã hỗ trợ nhân dân cải hoán, đóng mới tàu cá có công suất trên 90 CV để tham gia khai thác xa bờ; nâng cấp cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão đáp ứng tốt dịch vụ hậu cần nghề cá; vận động thành lập các tổ đội hợp tác, tổ đoàn kết sản xuất trên biển để hỗ trợ khi khai thác trên biển.
Chi cục Thủy sản tỉnh Tiền Giang đã và đang triển khai các hoạt động nhằm thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa theo Quyết định 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Đó là triển khai quyết định hỗ trợ chi phí nhiên liệu đi và về của ngư dân trên địa bàn tỉnh trên mỗi chuyến đi biển.
Theo đó, có 4 mức được hỗ trợ, gồm: tàu từ 90 – 150 CV được hỗ trợ 18 triệu đồng/chuyến; tàu từ 150 – 250CV hỗ trợ 25 triệu đồng/chuyến; tàu từ 250 đến dưới 400 CV được hỗ trợ 45 triệu đồng/chuyến; tàu từ 400 CV trở lên được hỗ trợ 60 triệu đồng/chuyến. Mỗi tàu cá đánh bắt xa bờ sẽ được hỗ trợ 4 chuyến/ năm… Đơn vị đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ cho các tàu cá tham gia khai thác hải sản trên các vùng biển xa trong đợt đầu năm 2022 cho 108 hồ sơ với tổng kinh phí trên 7,2 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định 459/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã phê duyệt cấp 179 máy thu trực canh (loại máy chuyên dụng để tiếp nhận thông tin thời tiết trên biển) cho ngư dân đánh bắt xa bờ. Qua đó, giúp ngư dân có điều kiện theo dõi, nắm bắt thông tin chính xác về thời tiết để chủ động trong phòng tránh và tìm nơi tránh trú bão an toàn khi gặp bất lợi về thời tiết lúc đang hoạt động khai thác thủy sản.
Ngoài ra, Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư tỉnh cũng đã tổ chức tập huấn hướng dẫn sử dụng máy dò ngang (sonar) JMC-CSL 1000 cho tàu đánh bắt xa bờ. Thiết bị này trị giá 280 triệu đồng; trong đó chủ tàu được Nhà nước hỗ trợ 50% (140 triệu đồng).
Theo lãnh đạo UBND tỉnh Tiền Giang, thời gian tới địa phương tiếp tục vận dụng hiệu quả các cơ chế, chính sách của Trung ương hỗ trợ phát triển thủy sản ở địa phương, đặc biệt là chính sách khuyến khích phát triển thủy sản theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời tranh thủ mọi nguồn lực tập trung đầu tư phát triển lĩnh vực thủy sản theo hướng giảm dần sản lượng khai thác ven bờ, tiếp tục hỗ trợ cải hoán, đóng mới tàu có công suất trên 90 CV.
Tỉnh tập trung phát triển đội tàu khai xa bờ tham gia khai thác ở các vùng biển xa, gắn khai thác thủy sản với bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên các vùng biển đảo của Tổ quốc. Hiện đại hóa trang thiết bị, máy móc ngư cụ, áp dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ trong khai thác và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch.
Tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá như khôi phục, đầu tư phát triển các cơ sở đóng mới, sửa, bảo dưỡng tàu cá. Đầu tư nâng cấp cảng cá Mỹ Tho, cảng cá Vàm Láng kết hợp khu neo đậu tránh trú bảo, các bến cá đảm bảo đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho khai thác và bảo quản sản phẩm thủy sản khai thác như các cơ sở sản xuất nước đá, kho lạnh… để có khả năng thu hút tàu cá của nhiều địa phương.
Ngoài ra, tỉnh cũng tăng cường tập huấn, tuyên truyền cho ngư dân về ghi chép nhật ký khai thác và kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm trong khai thác, sơ chế, bảo quản nguyên liệu thủy sản… đảm bảo yêu cầu về việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm khai thác và chất lượng nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biến.
Phát triển bền vững kinh tế biển ở Bạc Liêu và những vấn đề đặt ra
LTS: Bạc Liêu là tỉnh ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long với rất nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển.
Những năm qua, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu luôn xác định kinh tế biển là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội và dồn sức tập trung lãnh đạo, có nhiều đột phá trong tư duy, cách làm, đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề đặt ra, rất cần sự quan tâm vào cuộc của các cấp, ngành ở Trung ương cùng tháo gỡ để kinh tế biển ở Bạc Liêu tăng tốc, phát triển thật sự bền vững.
Bài 1: Từ lựa chọn đúng đắn đến nâng tầm tư duy về kinh tế biển
Với những lợi thế sẵn có, ngay từ sau khi chia tách, tái lập tỉnh (tỉnh Minh Hải chia tách thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã xác định rõ chủ trương và tập trung nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Sau nhiều năm kiên trì theo đuổi mục tiêu, tư duy, nhận thức của các cấp, ngành trong tỉnh về kinh tế biển không ngừng đổi mới, nâng cao và từng bước hoàn thiện về đường hướng, chiến lược phát triển.
Xác định trụ cột kinh tế biển - một chủ trương đúng đắn, xuyên suốt
Bạc Liêu có bờ biển dài 56km, vùng đặc quyền kinh tế trên biển và ngư trường khai thác hải sản rộng lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghề khai thác và đánh bắt thủy, hải sản phát triển... Tỉnh còn có các tiểu vùng sinh thái mặn và sinh thái lợ rất phù hợp để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản mà chủ lực là nuôi tôm. Phát huy lợi thế về điều kiện địa lý, từ nhiều nhiệm kỳ nay, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã xác định trọng tâm trong phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh là kinh tế biển. Trong đó, từ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 và tiếp tục là nhiệm kỳ 2020-2025 xác định, phát triển bền vững kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh là một trong 5 trụ cột phát triển kinh tế-xã hội.
Ngay khi chính thức chia tách, tái lập tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã ban hành hai nghị quyết quan trọng là Nghị quyết 02 và 06 về phát triển kinh tế biển (giai đoạn 1998-2005 và 2005-2010). Đặc biệt từ khi có Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-2-2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Bạc Liêu đã xây dựng, ban hành nhiều nghị quyết, chương trình về phát triển kinh tế biển. Nổi bật là Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 24-4-2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) về phát triển kinh tế biển và vùng phía Nam Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
Không chỉ quan tâm các ngành, nghề kinh tế biển truyền thống và kinh tế ven biển, Nghị quyết 04 còn mở rộng mục tiêu xây dựng vùng Nam Quốc lộ 1A trở thành vùng kinh tế động lực. Phấn đấu để Bạc Liêu trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển và làm giàu từ biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên vùng đặc quyền kinh tế biển và vùng phía Nam Quốc lộ 1A của tỉnh. Nghị quyết 04 đánh dấu một bước đột phá về tư duy trong phát triển kinh tế biển, hướng đến mục tiêu đưa Bạc Liêu từ một "đứa em út" vừa "ra riêng" chí thú làm ăn để thoát nghèo và tính chuyện vươn lên khá giả cho "bằng chị, bằng anh" trong cả nước.
Chia sẻ về những bước đi, cách làm trong phát triển kinh tế biển của Bạc Liêu, đồng chí Tạ Trung Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bạc Liêu cho biết, sau khi Tỉnh ủy có Nghị quyết 04, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các địa phương vùng ven biển xây dựng chương trình kế hoạch cụ thể để thực hiện. Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết 04, Tỉnh ủy sơ kết và ban hành Kết luận số 67-KL/TU ngày 15-1-2018 để tiếp tục phát triển kinh tế biển, định hướng đến năm 2025. Thực hiện Kết luận 67, UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nuôi tôm công nghệ cao, nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp; phát triển các loại thủy sản ven biển, phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ và phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; quy hoạch phát triển muối, quy hoạch phát triển các công trình tái tạo, quy hoạch về du lịch biển.
Nông dân Bạc Liêu thu hoạch tôm. Ảnh: HỮU THỌ.
"Phát triển kinh tế biển được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt trong nhiều nhiệm kỳ và được xác định là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Không chỉ lựa chọn kinh tế biển là một trong những trụ cột, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu đã từng bước thay đổi về tư duy phát triển kinh tế biển. Phát triển kinh tế biển không chỉ dừng lại ở nuôi trồng, khai thác, đánh bắt hải sản mà các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã mạnh dạn đột phá vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, du lịch. Đó là cả một hành trình dài gom góp, tích lũy kinh nghiệm, cách làm để nâng tầm về tư duy, đột phá về hành động...", đồng chí Tạ Trung Dũng nhấn mạnh.
Động lực to lớn từ kinh tế biển
Những năm gần đây, du khách đã từng đến Bạc Liêu sẽ không khỏi ấn tượng trước những trụ tua-bin điện gió cao sừng sững, gần như phủ kín suốt dải bờ biển. Cách đây chưa lâu, nơi đây chỉ có những cánh rừng bần, rừng đước hoang sơ, cuộc sống người dân quanh năm nghèo khó. Giờ đây, dải rừng đước vẫn còn đó, nhưng mọc lên xen lẫn nhiều trụ tua-bin điện gió như điểm tô thêm những nét chấm phá tươi mới trong bức tranh kinh tế-xã hội của một tỉnh còn nhiều khó khăn, nằm gần cuối bản đồ đất nước. Từ khi tỉnh chủ trương thu hút đầu tư phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, đời sống của nhân dân cả một vùng ven biển rộng lớn đổi thay rất nhiều. Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, các dịch vụ phụ trợ phát triển theo, bà con có thêm việc làm và mở ra nhiều cơ hội phát triển mới.
Bạc Liêu từng được ví von như chàng lực điền say sưa ngủ trên cánh đồng màu mỡ. Thế nhưng, đó chỉ là câu chuyện của quá khứ. Đường ra biển lớn hôm nay chẳng những không có chỗ cho "chàng lực điền say ngủ" mà còn đòi hỏi phải có tâm thế mới để vượt lên chính mình, phải thay đổi tư duy, đổi mới cách làm. Và chàng lực điền ấy đã thành công khi biến gió-"đặc sản" của Bạc Liêu-thành năng lượng để phục vụ đời sống, mang lại giá trị kinh tế. Đây được coi là bước đi đột phá, một chủ trương đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu khi lựa chọn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo vừa là một trong các trụ cột phát triển kinh tế, vừa là mũi nhọn trong phát triển kinh tế biển.
Cánh đồng điện gió Bạc Liêu. Ảnh: HỮU THỌ.
Là người sinh sống gần như cả cuộc đời tại vùng đất Bạc Liêu, chứng kiến quê hương ngày một "thay da đổi thịt", ông Bùi Văn Năm, 70 tuổi, ở thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải không khỏi tự hào. Theo ông Năm, cách đây gần 10 năm, Đông Hải chỉ là một địa phương nhỏ nép mình bên bờ đại dương bao la. Nhưng Đông Hải giờ đây đang từng ngày phát triển đi lên, khá sầm uất, kết cấu hạ tầng không ngừng được đầu tư. Cùng với tuyến đê biển, từ khi cảng cá Gành Hào được Trung ương đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng, đã đạt hiệu quả về nhiều mặt. Hằng ngày, có hàng chục tàu đánh cá công suất lớn ngày đêm ra vào cảng, không chỉ làm cho cửa biển thêm sầm uất, nhộn nhịp mà quan trọng là góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ dân trong huyện.
Thực tế sau nhiều năm theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế biển, từ những chủ trương, quyết sách rất mạnh mẽ và quyết đoán, hàng loạt công trình, dự án động lực đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội toàn vùng và cả tỉnh Bạc Liêu đã lần lượt ghi dấu ấn. Vùng đất phía Nam Quốc lộ 1A, nhất là khu vực ven biển như phất lên một luồng gió mới. Trong đó, ngành công nghiệp tôm và điện gió, điện mặt trời là những điểm sáng đầy ấn tượng ở Bạc Liêu.
Theo các đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh, lũy kế đến thời điểm hiện nay, tỉnh Bạc Liêu đã thu hút được 173 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư của các dự án trong nước đạt khoảng hơn 50.000 tỷ đồng và các dự án có vốn nước ngoài (FDI) là 4,489 tỷ USD. Trong đó lĩnh vực kinh tế biển chiếm tỷ lệ khoảng 98% đối với các dự án FDI và hơn 50% đối với các dự án trong nước. Ngoài ra, trên khắp địa bàn tỉnh, các dự án để phát triển văn hóa và du lịch mọc lên làm phong phú thêm cho vẻ đẹp trẻ trung, tươi mới, đầy sức sống của Bạc Liêu. Qua đó giúp lượng khách đến với quê hương của bản vọng cổ nổi tiếng "Dạ cổ hoài lang" ngày một tăng lên, đạt trung bình hằng năm khoảng 22% trong giai đoạn 2015-2020.
Trải qua muôn vàn khó khăn, bằng chủ trương, quyết sách đúng đắn, tư duy đổi mới, đột phá và hành động mạnh mẽ, Bạc Liêu hôm nay đang vươn mình ra biển lớn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Từ nguồn động lực to lớn của kinh tế biển đã đưa tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2016-2020) của Bạc Liêu đạt hơn 7%/năm, vượt mục tiêu đề ra và thuộc nhóm địa phương có tốc độ tăng trưởng cao của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh trong giai đoạn này đạt 58,43 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 1,8 lần so với năm 2015, đứng thứ 4/13 tỉnh, thành phố trong khu vực; tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2020 giảm còn dưới 1%, bình quân giảm khoảng 3,02%/năm...
Bằng cách gìn giữ, vun bồi vốn liếng tiền nhân để lại, huy động trí lực, tâm huyết của hệ thống chính trị toàn tỉnh hôm nay, Bạc Liêu đang bước những bước dài và rộng bằng đôi chân vững chãi. Vùng ven biển Bạc Liêu hôm nay không chỉ để cho rừng đước, rừng vẹt mọc hoang phí, hay vùng đất sình lầy là nơi cư ngụ của ngư dân nghèo ven biển mà nhường chỗ cho những trụ tua-bin điện gió sừng sững vút trời. Trong thời gian tới đây, ngoài khơi cách bờ biển không xa sẽ là địa điểm tập kết của luồng khí hóa lỏng để phục vụ cho sản xuất điện và hòa vào lưới điện quốc gia. 56km bờ biển của Bạc Liêu đã, đang và sẽ hiện thực hóa sứ mệnh, khát vọng làm giàu và thịnh vượng từ biển của lớp người đi trước đã dày công tôn tạo, vun đắp, đưa Bạc Liêu từng bước bắt nhịp cùng cả nước.
Vì một nghề cá bền vững Chống khai thác, đánh bắt bất hợp pháp không khai báo, không theo quy định là nỗ lực lâu dài vì một nghề cá bền vững, tôn trọng chủ quyền trên biển và phát triển kinh tế biển. Tàu neo đậu tại cảng cá Trần Đề (Sóc Trăng). Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát Trải qua hơn 4 năm thực hiện các tiêu chí chống...