Phát triển kinh tế vùng ĐBSCL: Động lực mới từ hoàn thiện hạ tầng giao thông
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, đánh giá tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, hạ tầng giao thông vận tải vẫn là điểm nghẽn của nền kinh tế và trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong Nghị quyết này, Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đồng bộ, hiện đại.
Phóng viên TTXVN có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Duy Lâm xung quanh vấn đề này.
Thành phố Cần Thơ phát triển dọc theo hai bên bờ sông Hậu. Ảnh minh họa: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Thứ trưởng có thể đánh giá hiện trạng hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay?
Hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 4 phương thức vận tải; trong đó thế mạnh là giao thông đường thủy, sau đó là đường bộ, hàng hải và hàng không.
Qua tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2020 cho thấy, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có sự thay đổi rõ rệt. Hệ thống đường bộ đang được đầu tư với chiều dài khoảng 2.688 km, tăng 52% so với năm 2002; 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Đặc biệt, chương trình xóa “cầu khỉ” đã được đẩy mạnh trong suốt thời gian qua với nhiều nguồn vốn khác nhau.
Hệ thống cảng thủy nội địa và nâng cấp luồng lạch các tuyến sông chính hiện đã hoàn thành nâng cấp 6 tuyến vận tải thủy chính kết nối Tp. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nâng cấp giai đoạn 1 kênh Chợ Gạo.
Hạ tầng cảng biển đã và đang được đầu tư theo nhu cầu vận tải của khu vực, hoàn thành việc đầu tư, nâng cấp cảng Cần Thơ, Hòn Chông và các cảng nằm dọc trên tuyến vận tải chính của sông Tiền, sông Hậu.
Về hàng không, cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, Phú Quốc; cảng hàng không Cà Mau, Rạch Giá đã được nâng cấp với tổng công suất 7,45 triệu khách/năm và 12.000 tấn hàng hóa/năm.
Về đường sắt, hiện đang triển khai lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi tuyến đường sắt Tp. Hồ Chí Minh – Mỹ Tho – Cần Thơ, dự kiến kêu gọi đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhằm tăng cường kết nối Tp. Hồ Chí Minh với các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Vậy đâu là điểm nghẽn về hạ tầng giao thông cần được tháo gỡ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thưa Thứ trưởng?
Video đang HOT
Thực tế, vùng Đồng bằng sông Cửu Long dù đã được Đảng và Chính phủ quan tâm đầu tư, tuy nhiên kết cấu hạ tầng giao thông vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế. Đường bộ còn nhỏ hẹp, nhiều tuyến mới chỉ được láng nhựa, vì thế chưa đáp ứng nhu cầu vận tải, đặc biệt là đòi hỏi về vận tải hành khách, hàng hóa với thời gian nhanh, chất lượng cao, đường bộ cao tốc trong vùng đến thời điểm này mới có gần 100 km. Vùng chưa có cảng biển nước sâu để có thể làm đầu mối xuất nhập khẩu hàng hóa đi các nước trong khu vực và đi các tuyến biển xa…; chưa phát huy được lợi thế tự nhiên của hệ thống đường thủy nội địa, tính kết nối giữa các phương thức vận tải còn hạn chế…
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, đánh giá tổng kết thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, hạ tầng giao thông vận tải vẫn là điểm nghẽn của nền kinh tế và trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguyên nhân chủ yếu do đặc điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nền địa chất yếu, bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và nước biển dâng, do đó, suất đầu tư xây dựng cao so với các khu vực khác trên cả nước. Mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm bố trí nguồn lực không nhỏ cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nhưng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn được rất ít công trình. Ví dụ làm một con đường nhưng mất rất nhiều kinh phí để xử lý nền đất yếu. Do đó, số lượng km đường hay công trình giao thông như cầu cống…ít hơn so với khu vực khác. Vì thế, việc đi lại, lưu thông của vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn rất khó khăn.
Để thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW, Bộ Giao thông Vận tải cần thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp gì để hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thưa Thứ trưởng?
Để thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW, Bộ Giao thông Vận tải đã xây dựng một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Thực hiện Luật Quy hoạch, Bộ Giao thông Vận tải đã rà soát, đánh giá, căn cứ các điều kiện đặc thù, lợi thế của các phương thức vận tải của từng vùng, miền; trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long để xây dựng quy hoạch tốt nhất. Đây là lần đầu tiên triển khai đồng thời 5 quy hoạch ngành quốc gia, là điều kiện thuận lợi để hoàn thành xây dựng quy hoạch hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại, bảo đảm kết nối hiệu quả giữa các phương thức nhằm tái cơ cấu thị phần vận tải, nâng cao chất lượng vận tải và giảm chi phí logistics.
Về đường bộ, sẽ hình thành mạng lưới đường bộ cao tốc gồm 3 trục dọc và 3 trục ngang cùng với 33 tuyến quốc lộ dài khoảng 3.611 km, đảm nhận vai trò gom hành khách, hàng hóa để kết nối với các tuyến cao tốc xương sống chính của vùng.
Về hàng hải, sẽ xây dựng cơ chế chính sách kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển trong khu vực để phát huy tiềm năng lợi thế. Cùng với đó, Bộ Giao thông Vận tải đã hoạch định xây dựng cảng biển nước sâu khu vực Trần Đề trở thành cảng đầu mối để xuất nhập khẩu hàng hóa của vùng đi các tuyến biển xa.
Trong khi đó về đường thủy nội địa, đưa vào cấp kỹ thuật các luồng tuyến vận tải thủy nội địa chính, hiện đại hóa thiết bị bốc dỡ các cảng sông, xây dựng các bến tàu khách quốc tế phục vụ cho vận tải hành khách và du lịch của vùng.
Đối với hàng không, các cảng hàng không trong vùng sẽ được đầu tư, nâng công suất từ 7,45 triệu hành khách/năm hiện nay lên 18,5 triệu hành khách/năm; bổ sung vào quy hoạch thành phố Cần Thơ kho hàng hóa, trung tâm logistics tại cảng hàng không quốc tế Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa có giá trị cao, thời gian ngắn.
Về đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải sẽ tập trung nguồn lực hoàn thành tuyến đường sắt kết nối Tp. Hồ Chí Minh với Cần Thơ.
Các quy hoạch chuyên ngành quốc gia này đã được tích hợp trong quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương sẽ tích hợp trong quy hoạch tỉnh. Do vậy, cùng với hệ thống giao thông của địa phương, kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, là tiền đề, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Để đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Giao thông Vận tải xác định, huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các công trình động lực, có tính lan tỏa, kết nối giữa các phương thức. Đồng thời, khai thác có hiệu quả nguồn lực từ tài sản kết cấu hạ tầng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước thông qua hình thức nhượng quyền khai thác.
Các địa phương trong vùng cần khẩn trương hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng.
Trên cơ sở đó, xây dựng danh mục dự án ưu tiên đầu tư giai đoạn 2021-2030 để tập trung huy động nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, kết nối đồng bộ và phát huy hiệu quả các dự án hạ tầng của quốc gia trên địa bàn. Bên cạnh đó, các địa phương cần hỗ trợ đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án trong khu vực; tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vật liệu, công bố giá kịp thời, sát thực tế để phục vụ triển khai các dự án đầu tư xây dựng.
Khi xây dựng các công trình hạ tầng mới, đặc biệt là các công trình đường bộ cao tốc, cần đi xa các tuyến đường cũ để tạo thêm không gian mới, làm động lực để phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp mới trong vùng, khai thác quỹ đất hình thành từ hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông để tái đầu tư phát triển.
Với sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, Bộ Giao thông Vận tải tin tưởng rằng, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trong vùng sẽ được đẩy mạnh đầu tư, từng bước đồng bộ, hiện đại, tạo lập được cơ cấu vận tải hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 13-NQ/TW trong thời gian tới.
Xin cảm ơn Thứ trưởng!
Tạo đòn bẩy phát triển kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long
Là vùng kinh tế rộng lớn với tổng diện tích 40,4 nghìn km2, Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thế mạnh về phát triển sản xuất nông nghiệp, thu hút đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, trong thời gian dài, hạ tầng giao thông chưa phát triển xứng tầm đang trở thành "điểm nghẽn" khiến các địa phương trong khu vực chưa phát huy hết những lợi thế cạnh tranh của vùng.
Cảng Tân Cảng - Cái Mép Thị Vải, Thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ảnh tư liệu: Huỳnh Sơn/TTXVN
Nhiều tiềm năng nhưng còn điểm nghẽn
Đánh giá về tiềm năng phát triển kinh tế, nhất là với sản xuất nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia đã khẳng định, vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện đóng góp khoảng 40% giá trị sản xuất nông nghiệp, trên 54% sản lượng lúa, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng thủy sản và 70% sản lượng trái cây của cả nước.
Theo đó, hàng năm Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn hàng. Tuy nhiên, hiện nay 70% lượng hàng hóa này vẫn phải chuyển tải về các cảng lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh và cảng Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu) khiến chi phí vận tải doanh nghiệp phải gánh cao hơn từ 10 - 40% tùy từng tuyến.
Phân tích về thế mạnh thu hút đầu tư của các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ông Nguyễn Phương Lam - Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ cho rằng, thế mạnh của đồng bằng này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện và vị trí tự nhiên. Diện tích đồng bằng rộng lớn, hệ thống sông rạch dày đặc với hai mặt giáp biển. Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế rất nhiều ở các cụm ngành là: lúa gạo, thủy sản, rau quả, du lịch hoặc cụm ngành công nghiệp năng lượng. Đặc biệt, đây là vùng có nguồn nguyên liệu nông thủy sản "đầu vào" dồi dào, dưới góc độ thu hút đầu tư, là lợi thế rất lớn để phát triển hạ tầng công nghiệp.
Chưa kể, Đồng bằng sông Cửu Long cũng là khu vực có môi trường kinh doanh khá thuận lợi, được cải thiện liên tục qua các năm. Điều này được thể hiện thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của vùng liên tục đứng đầu cả nước so với các vùng khác trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Phương Lam, một trong những thách thức lớn hiện nay đối với Đồng bằng sông Cửu Long chính là kết cấu hạ tầng. Chẳng hạn, cụm ngành logistics của vùng hiện nay đang đứng trước những khó khăn chính như còn hạn chế trong công nghệ đầu tư chuỗi lạnh, hạ tầng cảng biển và cảng sông quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao. Hạ tầng logistics còn thiếu kết nối, các nhà cung cấp dịch vụ logistics trọn gói còn ít. Hệ thống hạ tầng giao thông vận tải còn hạn chế khiến cho chi phí logistics còn cao, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa từ khu vực này.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, hiện nay 85% lượng hàng xuất khẩu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đều phải qua các cảng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu; 15% còn lại đi bằng đường bộ ra các cửa khẩu khu vực miền Trung, phía Bắc. Chính vì thế, dù tiềm năng cảng biển và dịch vụ logistics Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, nhưng vẫn chưa được phát triển xứng tầm để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa chủ lực của vùng.
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
Vừa qua, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã nêu rõ: Tầm nhìn đến năm 2050, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, là nơi đáng sống đối với người dân, là điểm đến hấp dẫn với du khách và nhà đầu tư.
Liên quan đến phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch đề cập, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đa phương thức, kết nối liên vùng và quốc tế; trong đó chú trọng phát huy thế mạnh của vùng về giao thông thủy nội địa. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc, khoảng 4.000 km đường quốc lộ, 4 cảng hàng không, 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy nội địa. Chẳng hạn, đối với phát triển mạng lưới giao thông đường bộ, đến năm 2030 tầm nhìn đến 2050 tại Đồng bằng sông Cửu Long, đường bộ cao tốc có tổng chiều dài là 1.166 km, bao gồm 3 trục dọc kết nối các tỉnh, thành phố trong vùng với vùng Đông Nam Bộ và 3 trục ngang nhằm tăng cường kết nối với hệ thống cảng biển trong vùng với các cửa khẩu quốc tế.
Đối với đường thủy nội địa, tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa nhằm phát huy lợi thế của vùng, nâng cao thị phần vận tải container. Phát triển 13 cụm cảng hàng hóa đảm bảo tổng công suất hàng hóa thông qua ước tính đạt trên 53 triệu tấn/năm; 11 cụm cảng hành khách đảm bảo tổng năng lực thông qua ước tính đạt 31 triệu lượt hành khách/năm.
Còn hệ thống cảng biển, đến năm 2030 đáp ứng nhu cầu hàng hóa thông qua từ 64 - 80 triệu tấn (hàng container từ 0,6 - 0,8 triệu TEU). Về hàng không, Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc đóng vai trò phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế, Cảng hàng không quốc tế Cần thơ là trung tâm đầu mối phát triển logistics hàng không của vùng.
Từng bước hiện thực hóa các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, vào cuối tháng 3 vừa qua, cây cầu Rạch Miểu 2 đã được khởi công. Đây là cây cầu bắc qua sông Tiền, có quy mô 6 làn xe (gồm 4 làn xe cơ giới, 2 làn xe thô sơ), vận tốc thiết kế 80 km/h, đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng trên tuyến Quốc lộ 60. Công trình, góp phần giảm tình trạng ách tắc, đồng thời tiết kiệm chi phí cho các phương tiện lưu thông với khoảng cách giao thông đường bộ giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau sẽ được rút ngắn.
Trong khi đó, liên quan đến chú trọng đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông, các tỉnh, thành trong vùng cũng đang đẩy mạnh tiến độ hoàn thành các công trình giao thông trọng điểm, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo UBND tỉnh Long An, tỉnh đang tập trung thực thực hiện ba công trình giao thông trọng điểm gồm: công trình hoàn thiện đường vành đai thành phố Tân An, đường ĐT.827E và đường ĐT.830E. Trong số đó, với công trình đường vành đai thành phố Tân An, UBND tỉnh Long An yêu cầu các đơn vị, địa phương liên quan quyết liệt hơn nữa trong giải phóng mặt bằng, giải phóng mặt bằng đến đâu, thi công xây dựng đến đó. Đồng thời, các chủ đầu tư khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ đầu tư phần cầu, đường còn lại để tổ chức lựa chọn nhà thầu ngay trong năm 2022.
Trong giai đoạn 2020 - 2025, cùng với ba công trình giao thông trọng điểm trên, tỉnh Long An cũng thực hiện chương trình đột phá huy động các nguồn lực phát triển hạ tầng giao thông với danh mục 8 công trình, góp phần hoàn chỉnh hệ thống mạng lưới giao thông đường bộ của tỉnh, góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
'Cởi trói' bảo trì đường bộ Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua, hệ thống đường bộ đã được nhà nước đầu tư nâng cấp cả về số lượng và chất lượng. Điều này cũng kéo theo những áp lực cho việc bảo trì, bảo dưỡng hệ thống này. Với nguồn ngân sách còn hạn chế, ngành đường bộ đã nỗ...