Phát triển kinh tế biển – Bài cuối: Những động lực mới
Bến Tre, Trà Vinh đều hướng đến mục tiêu trở thành những địa phương phát triển mạnh, bền vững về kinh tế biển, trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo, thủy sản và du lịch; từng bước hình thành văn hóa sinh thái biển, thích ứng với biến đổi khí hậu…
Trong điều kiện các tỉnh giáp biển còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế biển, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 36- NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây được xem là điều kiện thuận lợi để các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và là những động lực mới đưa kinh tế biển phát triển bền vững.
Nông dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, thu hoạch tôm thẻ chân trắng. Ảnh tư liệu: Công Trí/TTXVN
Tăng tốc đầu tư
Theo UBND tỉnh Bến Tre, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xuyên suốt trong những năm qua. Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, thu hút nguồn lực đầu tư vùng ven biển của tỉnh.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Minh Cảnh thông tin, địa phương tăng cường triển khai đồng bộ các khâu đột phá về phát triển bền vững kinh tế biển được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, gồm: hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển; phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp,khu đô thị, các vùng biển với cảng biển.
Cụ thể, thực hiện Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy Bến Tre về Phát triển công nghiệp chủ lực, lực lượng doanh nghiệp của tỉnh giai đoạn 2020- 2025, tầm nhìn 2030, Kế hoạch số 3707/KH-UBND ngày 01/7/2021của UBND tỉnh Bến Tre và kế hoạch phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025. Đến nay, trên địa bàn 3 huyện ven biển gồm: Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại có 5 cụm công nghiệp đã thành lập, với tổng diện tích 120,968 ha. Các cụm công nghiệp thu hút được 12 dự án thứ cấp tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 943,629 tỷ đồng.
Đáng chú ý, chỉ tính trong hơn hai năm 2020- 2022, UBND tỉnh Bến Tre bố trí ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho ba huyện ven biển khoảng 3.942 tỷ đồng. Trong số các dự án bố trí vốn có các dự án quan trọng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa phương như: Dự án xây dựng đê bao ngăn mặn kết hợp đường giao thông nối liền các huyện biển Bình Đại – Ba Tri – Thạnh Phú; Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Công nghiệp Phú Thuận…
Trước đó, giai đoạn 2003-2020, tỉnh phân bổ cho 3 huyện biển khoảng 7.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 30% tồng vốn đầu tư phát triển của tỉnh trong cả giai đoạn từ ngân sách nhà nước để đầu tư cơ sở hạ tầng trên các lĩnh vực như: giao thông, thủy lợi, trường học, y tế, công trình cấp nước sạch, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão…
Ngoài ra, tỉnh cấp chủ trương đầu tư cho 18 dự án đầu tư ngoài ngân sách nhà nước, góp phần phát triển kinh tế trên địa bàn 3 huyện biển với tổng vốn đầu tư trên 9.436 tỷ đồng; xúc tiến đầu tư với khoảng 265 nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu các cơ hội hợp tác đầu tư; cung cấp thông tin, hướng dẫn các thủ tục đầu tư, hỗ trợ khảo sát địa điểm đầu tư; giới thiệu các dự án ưu tiên mời gọi đầu tư trên địa bàn 3 huyện biển trên các lĩnh vực tiềm năng như: du lịch, hạ tầng cụm công nghiệp, đô thị biển, thủy sản.
Tại Trà Vinh, địa phương đã chú trọng huy động các nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển kinh tế biển. Với sự hỗ trợ của Trung ương, tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều dự án tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế biển. Chỉ tính giai đoạn 2011-2015, Trà Vinh đã đầu tư cho phát triển hạ tầng kỹ thuật với tổng mức vốn trên 1.850 tỷ đồng. Năm 2016, tỉnh tiếp tục được Trung ương hỗ trợ đầu tư 4 dự án, với tổng nguồn vốn hơn 910 tỷ đồng.
Có được nhiều chương trình, dự án đầu tư vào khu vực kinh tế biển, Trà Vinh đã phát triển nhanh nghề nuôi trồng thủy sản vùng nước lợ, vùng ngập mặn và nghề khai thác. Đến nay, tỉnh có diện tích nuôi tôm trên 57.000 ha, tăng 3,6 lần so năm 1992. Tổng sản lượng thuỷ, hải sản hằng năm được đánh bắt và nuôi trồng đạt trên 220.800 tấn. Tổng giá trị sản xuất thủy sản bình quân của tỉnh đạt trên 10.000 tỷ đồng và giá trị sản xuất/ha đất nuôi trồng thủy sản đạt 325 triệu đồng/ha.
Hướng đến vùng trọng điểm
Video đang HOT
Thời gian tới, các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh đều hướng đến mục tiêu trở thành những địa phương phát triển mạnh và bền vững về kinh tế biển, trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo, thủy sản và du lịch; từng bước hình thành văn hóa sinh thái biển, thích ứng với biến đổi khí hậu; đảm bảo môi trường biển, ngăn chặn tình trạng sạt lở bờ biển, bảo tồn và phát huy hệ sinh thái biển.
Cụ thể, trong chủ trương phát triển kinh tế biển ở Đồng bằng sông Cửu Long, Trà Vinh được Chính phủ chọn là tỉnh trọng điểm phát triển cả về thủy sản lẫn thế mạnh trong giao lưu quốc tế, phát triển cảng nước sâu với vai trò khu vực. Thực hiện chủ trương này, Trà Vinh đã được Trung ương đầu tư các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế biển cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long; trong đó, Trà Vinh đóng vai trò trung tâm.
Theo đó, Trà Vinh đã được Trung ương đầu tư xây dựng Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải; Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu; Khu kinh tế Định An, là 1 trong 8 khu kinh tế ven biển trọng điểm được ưu tiên đầu tư giai đoạn 2016-2020 của cả nước. Đây là khu kinh tế ven biển tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực về các ngành sản xuất điện năng, hóa dầu, đóng tàu và các ngành công nghiệp phụ trợ khác…
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ XI xác định, vùng phát triển kinh tế biển là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm. Việc tập trung huy động các nguồn lực, khai thác tốt các tiềm năng, tận dụng lợi thế để Trà Vinh trở thành một trong những tỉnh trọng điểm phát triển kinh tế biển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 1 trong 6 nhiệm vụ trọng tâm tỉnh tập trung thực hiện trong nhiệm kỳ 2020-2025.
Ngoài ra, trong Chương trình phát triển kinh tế biển tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, chủ yếu, tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để tỉnh phát triển khá lên từ nguồn lực biển.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Nguyễn Quỳnh Thiện cho biết, để thực hiện đạt mục tiêu Chương trình phát triển kinh tế biển, tỉnh đang tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp như: tập trung rà soát, điều chỉnh và xây dựng đồng bộ các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển; phát triển khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản, phát triển kinh tế biển và ven biển; đẩy mạnh thu hút đầu tư cho chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản; phát triển Khu Kinh tế Định An, các khu công nghiệp trong Khu kinh tế và công nghiệp ven biển, các dự án đầu tư trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế biển.
Hiện tỉnh đang kêu gọi thu hút đầu tư dự án xây dựng nhà máy chế biến cá, tôm qui mô 10.000 tấn/năm; dự án nhà máy bảo quản chế biến thủy, hải sản qui mô 10.000 tấn/năm; dự án nhà máy chế biến thức ăn thủy sản qui mô 20.000 – 30.000 tấn/năm; dự án nuôi tôm nước lợ công nghệ cao qui mô 200 – 300 ha/khu; dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ nghêu tại bãi bồi ven biển qui mô 200 – 300 ha/dự án; dự án hợp liên kết nuôi tôm sinh thái xuất khẩu qui mô 1000 – 2000 ha,…
Tương tự, với đặc điểm thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển, Bến Tre đã xoay trục, mở rộng tầm nhìn, không gian phát triển ra biển lớn, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế kinh tế biển gắn với ứng phó biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn… Qua đó, tạo ra động lực mới để Bến Tre phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.
Theo đó, tỉnh Bến Tre đang đẩy mạnh khai thác tiềm năng kinh tế biển và đặt mục tiêu trở thành một trong những địa phương phát triển mạnh và bền vững về kinh tế biển, trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo, thủy sản và du lịch vào năm 2030, tầm nhìn 2045. Đến năm 2030, tỉnh Bến Tre nỗ lực phát triển thành công, tạo đột phá một số ngành kinh tế biển, theo thứ tự ưu tiên như năng lượng tái tạo; khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá; phát triển du lịch biển; phát triển công nghiệp, đô thị ven biển và phát triển thương mại dịch vụ.
Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam cho hay, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Nghị quyết 04 phát triển Bến Tre về hướng Đông (hướng biển) giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn đến năm 2030, góp phần thực hiện Nghị quyết của Trung ương về phát triển bền vững kinh tế biển.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Bến Tre đã chỉ đạo các ngành đưa nội dung lấn biển vào Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, cụ thể hóa tổng diện tích khu vực lấn biển 50 ngàn ha, gồm: Khu vực huyện Thạnh Phú 15.000 ha, huyện Ba Tri 14.000 ngàn ha, huyện Bình Đại 21.000 ha.
Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam khẳng định, khu kinh tế biển và tuyến đường bộ ven biển là những dự án chiến lược rất quan trọng, mở ra không gian phát triển mới của tỉnh trong tương lai. Tỉnh đang rất quyết liệt triển khai nghiên cứu, lập đề án; trong đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để phát triển khu kinh tế ven biển là thực hiện đề án lấn biển và tuyến đường bộ ven biển.
Phát triển kinh tế biển bền vững - Bài 1: Động lực phát triển của địa phương
Sau 4 năm triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế biển đã có được những sự phát triển quan trọng, tạo ra được những động lực phát triển cho từng địa phương và cho cả nước.
Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, các chủ trương lớn, khâu đột phá và các giải pháp chủ yếu trong phát triển kinh tế biển, để đến năm 2045: "Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương". Nghị quyết là cơ sở quan trọng để các địa phương ven biển lãnh đạo, chỉ đạo phát triển bền vững kinh tế biển hiệu quả hơn, đồng bộ hơn. Đến nay, sau 4 năm triển khai, kinh tế biển đã có được những sự phát triển quan trọng, tạo ra được những động lực phát triển cho từng địa phương và cho cả nước. Liên quan đến nội dung này, Phóng viên TTXVN thực hiện chùm 3 bài viết: "Phát triển kinh tế biển bền vững".
Những tấm lưới màu xanh hòa quyện cùng màu xanh trong của nước biển. Ảnh: TTXVN phát
Bài 1: Động lực phát triển của địa phương
Phát triển kinh tế biển có vai trò quan trọng tăng cường sức mạnh tổng hợp, thế và lực của quốc gia cũng như nâng cao "thế trận lòng dân" trên các vùng biển, đảo, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước.
Những chuyển biến tích cực
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế phát triển chung toàn cầu.
Phát biểu tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cho biết: Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, các cơ quan Trung ương và các địa phương có biển đã ban hành chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Nhận thức của toàn hệ thống chính trị và người dân về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững. Công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải được tăng cường. Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được chủ động triển khai toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển của đất nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện. Nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng.
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các ngành kinh tế biển từng bước trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội: Du lịch biển đảo mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước. Vận tải hàng hóa đường biển đạt hơn 85 triệu tấn. Sản lượng khai thác quy dầu khí đạt 18,43 triệu tấn (dầu thô đạt 10,97 triệu tấn). Sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.920 nghìn tấn; nuôi trồng đạt hơn 4.805 nghìn tấn...
Cả nước hiện có 18/19 khu kinh tế ven biển nằm trong quy hoạch đã được thành lập. Đã hình thành chuỗi đô thị biển với gần 600 đô thị, chiếm khoảng 8% số lượng đô thị cả nước với dân số khoảng 19 triệu người. Quy hoạch không gian biển quốc gia được định hướng phân vùng, sử dụng không gian biển bảo đảm hài hòa giữa phát triển và bảo tồn, lợi ích giữa các bên liên quan, các thế hệ hôm nay và mai sau; từng bước xây dựng liên kết, hình thành 4 vùng kinh tế ven biển, bao gồm: Vùng biển và ven biển phía Bắc; Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ; Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển đã được tăng cường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai. Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206 nghìn ha, trong đó có 185 nghìn ha biển.
Các địa phương đã quan tâm, chú ý nhiều hơn tới việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của biển và kinh tế biển; từng bước hình thành các cộng đồng văn minh, văn hóa sinh thái biển ở nhiều địa phương.
Hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ môi trường biển đã được tăng cường. Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn khu vực và thế giới về kinh tế biển xanh, chống rác thải nhựa biển, bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển.
Nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, Kiên Giang là một trong 28 tỉnh, thành có biển, ven biển với hệ sinh thái vùng ngập mặn phong phú và đa dạng. Vùng biển Kiên Giang rộng lớn với diện tích trên 63 ngàn km2, bờ biển dài khoảng 200km, với hơn 140 đảo nổi lớn, nhỏ, tạo thành 5 quần đảo, trong đó đảo lớn nhất là đảo Phú Quốc.
Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tỉnh ủy Kiên Giang đã ban hành Chương trình hành động, quán triệt, triển khai sâu rộng đến các cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng lên nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế biển, từ đó tạo được sự quyết tâm trong hành động.
Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vùng ven biển và hải đảo được quan tâm đầu tư xây dựng. Giai đoạn 2016-2020, Kiên Giang huy động 140.000 tỷ đồng vốn đầu tư vùng biển, đảo, chiếm 80% nhu cầu vốn đầu tư toàn tỉnh. Nhiều dự án, công trình lớn đã được triển khai, hoàn thành đưa vào sử dụng như: Cầu Cái Lớn - Cái Bé; lưới điện quốc gia ra các đảo Phú Quốc, Hòn Tre, Lại Sơn, Hòn Nghệ, Sơn Hải... Đặc biệt là Thành phố Phú Quốc, thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam được quan tâm đầu tư với nhiều dự án, công trình quan trọng như: Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, cảng Bãi Vòng, cảng An Thới, hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước...
Nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu vui chơi giải trí lớn được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, phục vụ du khách trong nước và quốc tế; góp phần để du lịch biển Kiên Giang những năm gần đây có bước phát triển khá mạnh với tổng lượng khách du lịch từ năm 2015 đến 2020 đạt 40,8 triệu lượt với tổng doanh thu trên 70.000 tỷ đồng.
Tỉnh cũng đã hoàn thành nhiều công trình thủy lợi vùng ven biển phục vụ nuôi trồng thủy sản; các công trình gia cố đê biển; đầu tư phát triển hệ thống điện, nước, nâng tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện vùng ven biển, hải đảo đến nay đạt 99,1%, hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 81%. Tỉnh xây dựng 08 dự án mang tính cấp thiết ứng phó với biển đổi khí hậu, như nâng cấp đê biển từ Hà Tiên đến Tiểu Dừa (An Minh), khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển, quản lý tổng hợp vùng bờ...
Tiềm năng to lớn
Mỗi tàu đánh cá cơm thường có từ 8 đến 10 ngư dân. Ảnh: TTXVN phát
Bà Rịa-Vũng Tàu là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biển. Với bờ biển dài khoảng 305,4 km, trong đó khoảng 156 km có bãi cát thoai thoải, nước xanh có thể sử dụng làm bãi tắm quanh năm. Ngoài ra, với thềm lục địa có diện tích trên 100.000 km2, tỉnh có tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển: Khai thác dầu khí, khai thác hải sản, vận tải biển...
Trong những năm qua, kinh tế biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được tập trung vào các ngành có tiềm năng, lợi thế. Trên địa bàn tỉnh có 57 bến cảng được quy hoạch; trong đó đã đưa vào khai thác 28 bến cảng với tổng vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD và tổng chiều dài cầu bến 11,6 km. Riêng khu vực Cái Mép - Thị Vải có 35 bến cảng, hiện đã đưa vào khai thác 17 bến cảng. Các cảng container tại Cái Mép - Thị Vải được đầu tư trên 27.000 tỷ đồng, bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2009, với tổng chiều dài cầu bến container 4 km. Hiệu quả hoạt động của hệ thống cảng biển trên địa bàn tỉnh đang ngày càng được nâng lên, tổng công suất khai thác của hệ thống cảng năm 2020 đạt 90 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2025 đạt khoảng 133-149 triệu tấn/năm; năm 2030 khoảng 161-195 triệu tấn/năm.
Cùng với phát triển cảng biển, ngành dịch vụ hậu cần cảng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã có những chuyển biến tích cực, từng bước hình thành hệ sinh thái logistics. Hiện tỉnh đã có 20 dự án kho bãi logistics đi vào hoạt động với tổng diện tích chiếm đất khoảng 224 ha. Công tác quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000, Trung tâm logistics Cái Mép Hạ đã hoàn thành, đây là cơ sở pháp lý để lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tham gia đầu tư xây dựng, kết nối Bà Rịa-Vũng Tàu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngành du lịch tỉnh có lượng khách tăng trưởng bình quân hơn 12,9%/năm, trong đó phần lớn lượng khách đến vùng biển đảo. Tổng thu từ khách du lịch tăng bình quân trên 15,9%/năm. Hiện nay, nhằm phục hồi ngành du lịch của tỉnh sau đại dịch, Bà Rịa-Vũng Tàu đã và đang triển khai các chính sách, biện pháp kích cầu, phục hồi hoạt động du lịch, lữ hành; tăng cường quản lý Nhà nước bảo đảm an toàn cho khách du lịch; hỗ trợ bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành du lịch; đầu tư hoàn thiện hạ tầng tuyến đường ven biển và cải tạo lại Bãi Sau để khai thác tối đa tiềm năng du lịch.
Với lợi thế diện tích vùng biển và ven biển rộng lớn, điều kiện tự nhiên thuận lợi, Bà Rịa-Vũng Tàu đã chú trọng đến phát triển nuôi trồng thủy sản. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2017-2020 đạt 4,52%/năm. Diện tích nuôi thủy sản nước mặn và nước lợ của tỉnh hiện lên đến 4.492 ha với sản lượng đạt hơn 11.000 tấn/năm. Trong đó, khoảng 3.900 ha mặt nước đang nuôi trồng các loại tôm sú, thẻ chân trắng... có giá trị kinh tế và mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi, đặc biệt là khi bà con ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng. Nghề nuôi cá biển lồng bè tại xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu đã được Ủy ban nhân dân tỉnh đưa vào quy hoạch và phát triển từ năm 2007, hướng tới xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, xây dựng vùng nguyên liệu chế biến xuất khẩu, góp phần nâng cao đời sống người dân và phát triển kinh tế địa phương.
Là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Phú Yên có bờ biển dài 189 km, với ngư trường rộng, nguồn thủy sản phong phú; nhiều đầm vịnh kín gió, thuận lợi cho nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, phát triển dịch vụ du lịch và cảng biển.
Khu vực ven biển của tỉnh Phú Yên phát triển mạnh, là đầu tàu kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10,5%/năm; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, đóng góp trên 65% giá trị GDP và trên 75% ngân sách tỉnh. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, du lịch được quan tâm đầu tư tương đối đồng bộ, phục vụ tốt công tác thu hút đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội khu vực ven biển. Hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển được đẩy mạnh. Sản lượng đánh bắt hàng năm trên 60.000 tấn, trong đó cá ngừ đại dương đạt trên 6.000 tấn có giá trị kinh tế cao. Nuôi trồng thủy sản đã phát triển thành một nghề sản xuất chính, cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu khoảng 8.000 tấn/năm, với các loại hải sản có giá trị như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá mú... Công nghiệp ven biển từng bước phát triển; hình thành 05 khu công nghiệp tập trung, tổng diện tích hơn 460 ha, đã có hơn 80 dự án đầu tư, tỉ lệ đăng ký đầu tư lấp đầy khoảng 77%.
Đặc biệt, Khu kinh tế Nam Phú Yên là một trong tám Khu kinh tế ven biển trọng điểm của cả nước được đầu tư hạ tầng tương đối đồng bộ. Ngoài Cảng biển Vũng Rô được đầu tư, nâng cấp, tiếp nhận tàu có tải trọng đến 3.000 DWT, năng lực khai thác hàng hóa đến nay đạt hơn 700.000 tấn/năm, Phú Yên còn có quy hoạch Cảng biển nước sâu Bãi Gốc tiếp nhận tàu có trọng tải đến 50.000 tấn. Hạ tầng phục vụ du lịch được chú trọng đầu tư, toàn tỉnh hiện có hơn 370 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch, với hơn 6.000 buồng đạt tiêu chuẩn từ 4-5 sao; tổng lượt khách du lịch đến tỉnh đạt khoảng 1,83 triệu lượt/năm... Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong tỉnh nói chung và vùng biển, ven biển nói riêng. Kinh tế biển đã và đang trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương...
Giá dừa giảm mạnh, Bến Tre kiến nghị hỗ trợ xuất khẩu dừa và các sản phẩm dừa Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Minh Cảnh vừa ký công văn kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương hỗ trợ tỉnh Bến Tre đẩy mạnh tiêu thụ dừa và các sản phẩm dừa. Qua đó, góp phần giải quyết những khó khăn cho ngành dừa, giúp người nông dân trong tỉnh ổn định cuộc...