Phát hiện hóa thạch của sinh hoàn toàn mới trong mỏ đá xứ Wales
Những hóa thạch biển nhỏ bé này có niên đại 460 triệu năm, khi một đại dương bao phủ toàn bộ xứ Wales. Trong khi khai quật một mỏ đá ở Llandrindod Wells, Powys, Wales, các nhà nghiên cứu đã bắt gặp hai hóa thạch vô cùng nhỏ bé, chúng có niên đại khoảng 460 triệu năm.
Mặc dù các nhà khoa học tin rằng chúng giống với một dạng sinh vật biển đã tuyệt chủng được gọi là opabiniids, nhưng họ cho rằng những hóa thạch này đại diện cho một loài hoàn toàn mới.
Như phys.org giải thích, các nhà nghiên cứu Joseph Botting và Lucy Muir, đồng nghiệp tại Bảo tàng Quốc gia Wales, đã thực hiện phát hiện thú vị này trong thời gian phong tỏa do COVID-19.
Botting giải thích: “Khi lệnh phong tỏa bắt đầu, tôi nghĩ mình sẽ thực hiện một chuyến đi nữa để thu thập một số hóa thạch khác trước khi viết chúng ra”.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Communications, các nhà nghiên cứu giải thích rằng họ đã tìm thấy hai hóa thạch khi khai quật cánh đồng. Một cái dài khoảng nửa inch, trong khi cái kia chỉ dài 0,1 inch. Mặc dù mẫu vật nhỏ hơn chưa được đặt tên vì phải chờ nghiên cứu thêm, nhưng các nhà nghiên cứu đã đặt tên cho hóa thạch lớn hơn là Mieridduryn bonniae.
Tiến sĩ Joseph Botting và Tiến sĩ Lucy Muir là Nghiên cứu sinh Danh dự tại Amgueddfa Cymru, Bảo tàng Quốc gia Wales.
Video đang HOT
Mieridduryn là tiếng Wales có nghĩa là “mõm gai” (mier, nghĩa là bụi gai, và duryn, nghĩa là mõm), ám chỉ chiếc mũi nhọn của sinh vật. Nửa sau ở tên của nó là sự tôn kính đối với Bonnie, cháu gái của chủ sở hữu cánh đồng nơi Botting và Muir tìm thấy hóa thạch.
“Nhiều tên khoa học khác của sinh vật này cũng được đặt bằng các từ tiếng Latinh hoặc tiếng Hy Lạp”, Muir giải thích với phys.org, “nhưng chúng tôi thực sự muốn tôn vinh xứ Wales, nơi các mẫu vật được phát hiện, nên đã chọn sử dụng ngôn ngữ xứ Wales”. Cô ấy nói thêm rằng Bonnie đã hỗ trợ và đầu tư vào nghiên cứu của họ.
Mẫu vật nhỏ hơn trong số hai mẫu vật, chỉ dài bằng 1/10 inch.
Vậy chính xác những hóa thạch mà Botting và Muir tìm thấy là gì? Theo Live Science, chúng có một số điểm giống với một sinh vật cổ đại được gọi là opabiniids, những sinh vật biển đã tuyệt chủng xuất hiện trong vụ nổ kỷ Cambri.
Nhưng loài được phát hiện tại xứ Wales lại sống trong kỷ Ordovic (khoảng 485,4 triệu đến 443,8 triệu năm trước), trẻ hơn opabiniids 40 triệu năm và có một số khác biệt quan trọng. Ví dụ, M. bonniae không có mắt, trong khi opabiniids thường có 5 mắt. Hơn nữa, M. bonniae có mõm nhọn, trong khi opabiniids có mõm nhẵn.
“Nó có thể là một opabiniid hoàn toàn mới”, Joanna Wolfe, cộng tác viên nghiên cứu tại Khoa Sinh học Sinh vật và Tiến hóa tại Đại học Harvard, đồng tác giả của nghiên cứu mới, nói với Live Science. “Nhưng có lẽ nó không phải là opabiniid hay radiodont – bởi sinh vật này có những đặc điểm cho thấy rằng chúng là một loài nằm ở khoảng giữa của hai sinh vật cổ đại kia”.
Các mẫu vật gây tò mò đã được tìm thấy tại một mỏ đá ở xứ Wales nổi tiếng với việc phát hiện bọt biển cổ đại – và các nhà nghiên cứu rất mong muốn tiếp tục tìm kiếm thêm hóa thạch ở đó.
Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã suy đoán rằng những hóa thạch này đến từ một sinh vật có thể giống động vật chân đốt – một nhóm bao gồm cua, nhện và động vật nhiều chân hiện đại.
Stephen Pates của Đại học Cambridge, tác giả chính của nghiên cứu, nói với phys.org: “Những nghiên cứu ban đầu của chúng tôi cho thấy rằng dù được coi là một hay hai loài, thì chúng đều có quan hệ họ hàng gần với động vật chân đốt hiện đại hơn là với opabiniids”. Những phân tích này gợi ý rằng Mieridduryn và mẫu vật nhỏ hơn không phải là opabiniids.
Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra giả thuyết rằng hóa thạch nhỏ hơn trong số hai hóa thạch có thể là ấu trùng của mẫu vật M. bonniae lớn hơn.
“Kích thước của mẫu vật nhỏ hơn có thể so sánh với một số ấu trùng động vật chân đốt hiện đại – chúng tôi phải tính đến khả năng này trong các phân tích của mình”, Wolfe giải thích với phys.org.
Dù hóa thạch được phát hiện ở xứ Wales là gì thì chúng vẫn đại diện cho một mắt xích quan trọng trong quá trình tiến hóa của sự sống trên Trái đất.
Quái vật biển 'mặt cá sấu', nỗi khiếp sợ dưới đại dương ở Wyoming
Quái vật biển khổng lồ sử dụng chiếc cổ dài và bộ hàm lớn để ngoạm con mồi, là nỗi khiếp sợ của nhiều loài sinh vật biển.
Cách đây hàng triệu năm, một loài bò sát biển cổ dài khổng lồ sống ở những vùng biển cổ đại mà ngày nay là Wyoming. Chúng chỉ cần ngoáy chiếc cổ ngoằn ngoèo qua lại và sử dụng bộ hàm giống như cá sấu để tóm gọn cá cũng như các sinh vật biển nhỏ khác.
Lần đầu tiên, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện ra hóa thạch của loài thủy quái hình sin này vào năm 1995 giữa những phiến đá có niên đại 101 đến 66 triệu năm trước. Không giống như các loài bò sát biển lớn, ăn thịt khác, loài động vật này có những đặc điểm thể chất khiến nó khác biệt với các thành viên khác. Mới đây, các nhà nghiên cứu đã tiết lộ những phát hiện khác lạ về loài quái vật biển này.
Walter Scott mindset từ Đại học Charleston ở Nam Carolina, người đứng đầu nghiên cứu cho biết: "Cá thể bò sát biển lớn ăn thịt này có hình thái riêng biệt, một chiếc cổ rất dài, ngoằn ngoèo, đầu nhỏ, hàm giống cá sấu. Con quái vật biển kỳ lạ, độc nhất vô nhị này là sự giao thoa giữa hai loài".
Các nhà cổ sinh vật học đặt tên cho loài động vật này là Serpentisuchops pfisterae, có nghĩa là "mặt mũi nhọn". Hoá thạch của sinh vật dài 7 mét được trưng bày trong Bảo tàng Cổ sinh vật học Glenrock gần Casper, Wyoming, Mỹ. Walter Scott Persons đã chiêm ngưỡng hoá thạch quái vật trong bảo tàng từ khi còn là một học sinh.
Nghiên cứu cho thấy nó thuộc nhóm plesiosaurs, một loại 'thằn lằn đầu rắn', thuộc nhóm khủng long sống dưới nước phát triển mạnh trong kỷ Phấn Trắng. Tuy nhiên mẫu vật Wyoming mang những đặc điểm hình thể lạ lùng khiến nó khác biệt với các thành viên khác.
Trong nhiều thập kỷ, các nhà cổ sinh vật học đã tiến hành các nghiên cứu chi tiết khoảng 35% cơ thể, bao gồm hàm dưới được bảo quản khá nguyên vẹn, một phần lớn hộp sọ, cổ khá hoàn chỉnh, đốt sống, phần lớn đuôi và một số xương sườn.
"Phần duy nhất mà chúng tôi còn thiếu là các chi tiết về mái chèo của nó", Walter Scott mindset nói.
Nghiên cứu phần răng của quái vật cho thấy điểm khác lạ. Những chiếc răng hình nón cao, nhẵn và không có răng cưa. Do vậy loài vật này không thể cắn xuyên qua những chiếc xương dày.
Răng có một chức năng duy nhất đó là đâm và xiên con mồi. Con quái vật khổng lồ có khả năng đuổi theo những con mồi trơn trượt mà không gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến.
Hóa thạch ở Australia cho thấy bằng chứng lâu đời về sự sống trên Trái đất Các nhà khoa học từ Vương quốc Anh đã chứng minh rằng những tảng đá được tìm thấy ở Australia và có niên đại gần 3,5 tỷ năm tuổi là tàn tích hóa thạch của thảm vi khuẩn, dấu vết của sự sống sớm nhất. Ở Nam Phi và miền tây Australia, chỉ những tảng đá cũ mới nổi lên trên bề mặt,...