Phấn nụ – mỹ phẩm của cung tần mỹ nữ
Nghề làm phấn nụ đến thời điểm này vẫn được lưu truyền là do một cung nữ thoái cung về với cuộc sống gia đình và truyền lại cho con cháu.
Những truyền nhân là con gái “rượu”
Căn nhà 34 Tô Hiến Thành (số cũ 22) ở TP. Huế của cô Thu nguyên trước là nhà của mẹ cô, bà Trần Thị Thiểu (gọi theo tên chồng là Hường). Bà Hường sinh năm 1911, mất năm 1993, từng nối nghiệp mẹ phục vụ son phấn cho các cung phi trong cung cấm cuối triều Nguyễn.
Khi nhà Nguyễn sụp đổ, việc làm đẹp cho các cung tần không còn nữa nên mẹ của bà Hường cũng thoái cung về với cuộc sống gia đình. Những phương thức bí truyền về cách làm phấn nụ được bà lưu giữ và truyền lại cho người con út là bà Hường. Sản phẩm phấn nụ bà Hường vang danh khắp chốn Kinh kì từ đó.
Trong số 9 người con, bà Hường chỉ tin tưởng và truyền lại nghề cho 2 cô con gái là bà Trần Thị Tùng (con cả) và bà Trần Thị Phương (con thứ 8). Năm 1993, bà Tùng theo chồng định cư tại Mỹ và truyền nghề lại cho cô em út là Trần Thị Ái Thu. Cô Thu vẫn tiếp tục sản xuất phấn nụ và giữ thương hiệu Bà Tùng từ bấy cho đến bây giờ.
Cô Thu tâm sự: “9 tuổi, tui đã được mẹ dạy làm phấn nụ, cuộc sống vất vả của một gia đình đông con nhưng chỉ nhờ vào nghề làm mỹ phẩm lắm lúc cũng lận đận nhưng không vì vậy mà chúng tôi dứt lòng bỏ đi nghề gia truyền”.
Cô Trần Thị Ái Thu bên những mẻ phấn nụ đang ủ nắng.
Phấn nụ tiêu thụ đều đều, thường xuyên, giá cả phải chăng, tuy không làm giàu được nhưng nhờ nó mà mẹ bà nuôi sống cả gia đình với 9 người con. Được truyền nghề từ năm lên 9, nhưng năm 14 tuổi đã theo chồng nên mọi bí truyền về nghề, mẹ cô Thu đều truyền cho hai người chị.
Sau khi cả bà Phương và bà Tùng đều theo gót chồng sinh sống ở xa thì cô Thu quyết định về lại nhà mẹ sinh sống và lưu giữ nghề. Đây tuy là nghề nhẹ nhàng nhưng hết sức công phu và yêu cầu đến cả tính nết của người phụ nữ trong đó.
Khi tôi có ý định được ghi hình và tận mặt chứng kiến những công đoạn làm phấn nụ thì bà chỉ cười nhẹ ý rằng đó là một bí mật không thể tiết lộ được. Nhưng bà tiết lộ, phấn nụ thường chỉ sản xuất vào mùa nắng, và đêm đêm, từ khoảng 22 giờ trở đi, khi mọi công chuyện gia đình đã xong xuôi, cô mới bắt tay vào làm phấn nụ. “Làm khuya trời mát mẻ, không gian tĩnh lặng mình mới làm nên những viên phấn tốt được”, cô Thu chia sẻ.
Video đang HOT
Công việc này cho biết khá chính xác về sự cần mẫn, về cái tâm tịnh của người làm. Chỉ cần bộp chộp, nóng nảy một chút là xem như hỏng cả mẻ. Tôi còn chưa hết ngạc nhiên khi người phụ nữ này lại có thể xem qua chút ít về tính tình, tướng mạo của mình một cách khá chính xác. Bà bảo vì khi tâm tịnh để làm ra những viên phấn quý như vậy thì cũng như một cách mình thiền mà thấy được chút ít tố chất của người khác, một chút kì bí nhưng cũng khá hấp dẫn.
Hiện tại, hai người con gái của cô Thu đang tiếp tục theo học nghề của gia đình. Đặc biệt, cô con gái út năm nay 19 tuổi với tư chất thông minh, nhanh nhẹn được bà “ngắm” để truyền nghề. Cô út đang có dự định theo học ngành Dược để có thêm kiến thức phục vụ cho việc sản xuất những loại phấn nụ tốt hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của chị em.
Phấn nụ mai này có còn với thời gian?
Thời hiện đại, những loại mỹ phẩm với đủ thứ loại tràn ngập khắp thị trường. Phấn nụ, âm trầm như cô gái Huế vẫn hiện diện và làm đẹp cho biết bao nhiêu làn da. Cô Thu chắc nịch: “Những ai chưa dùng hoặc không có điều kiện dùng thì thôi chứ nếu đã thử qua và biết hiệu quả của phấn nụ thì mê ngay”.
Phấn nụ, vốn rất công phu trong việc sử dụng nên giới trẻ ngày nay ít chuộng. Tuy nhiên, không ít bạn trẻ Huế vẫn biết đến và sử dụng loại mỹ phẩm này.
Những mẻ phấn được ủ nắng, phơi sương trong góc sân nhà cổ kín đáo.
Em Trần Thị Ái Nhi, con gái út cô Thu chia sẻ: “Nhiều người vì dùng một vài lần nên chưa thấy được tác dụng của phấn nụ nên bỏ qua không dùng”. Với những làn da khô nhờn, nếu kiên trì dùng lâu, da xấu sẽ dần bong đi, cùng với việc sử dụng những loại kem dưỡng cũng từ các vị thuốc Bắc, làn da sẽ ngày càng đẹp và tươi mát hơn. Càng đặc biệt hơn khi những sản phẩm này không hề gây độc hại đến người dùng.
Trở lại với câu chuyện, cô Thu tâm sự, những ngày còn sống, mẹ luôn nhắc chị em chúng tôi phải luôn biết giữ gìn và phát triển nghề của gia đình, dù nó không làm giàu được nhưng đó là một tinh hoa mà một khi mất đi thì mãi không tìm lại được”.
Hiện, giá bán của phấn nụ rất rẻ, chỉ từ 15-20 ngàn 1 viên phấn loại lớn. Càng khó khăn hơn khi có những dòng sản phẩm phấn nụ bán ở các chợ Huế với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, do không ham chuộng sản xuất tràn lan làm mất đi ưu điểm sản phẩm của mình nên thương hiệu phấn nụ bà Tùng vẫn giữ được niềm tin của khách hàng ở Huế, Sài Gòn, Mỹ…
Theo BĐVN
Quốc ấn của vua Bảo Đại lưu lạc ở Pháp?
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, người Pháp tìm được trong một thùng thiếc và trả lại triều Nguyễn. Bà Bùi Mộng Điệp đã nhận ấn và kiếm từ tay người Pháp.
Sau khi Hoàng hậu Nam Phương qua đời (1963), quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu nằm trong tay Hoàng thái tử Bảo Long. Khoảng năm 1982, sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (người Pháp), ông nhận lại chiếc ấn từ con trai mình. Từ đó, không còn thấy ai nhắc gì tới chiếc ấn này nữa.
Quốc ấn - mệnh vua
Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh ngày 22/10/1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế. Với chiếc ấn Hoàng đế Chi Bửu, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn đã ban hành nhiều chiếu chỉ cải cách triều chính.
Cụ thể, năm 1926, sau khi lên ngôi, vua Bảo Đại đã ra chiếu chỉ cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra như: thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới; mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua; các quan ta cũng không phải quỳ lạy...
Năm 1932, cũng với chiếc ấn này, Bảo Đại đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong các thượng thư xuất thân từ giới học giả và hành chính. Ông thành lập Viện Dân biểu trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng...
Tiếp đó, năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu.
Quốc ấn Ấn Hoàng đế Chi Bửu.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ Tuyên cáo Việt Nam độc lập, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam....
Chiếc ấn đỏ từng hiện diện trên hàng ngàn văn bản thể hiện sức mạnh quyền uy của vị vua thứ 13 triều Nguyễn cũng như số phận của vị đế vương. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Bảo Đại thoái vị. Tự tay ông đã trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời. Hoàng đế Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy và quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu từ đây cũng như trở thành "cổ vật".
Số phận long đong của Hoàng đế Chi Bửu
Theo nhiều tài liệu ghi lại, năm 1952, khi Pháp tấn công Hà Nội, ấn Hoàng đế Chi Bửu và kiếm ngọc được chính phủ cách mạng lâm thời chôn ở Bắc Bộ phủ, không mang ra chiến khu.
Vua Bảo Đại lúc còn nhỏ. (Ảnh tư liệu)
Về sau, trong thời gian Hà Nội bị tạm chiếm, Pháp có đào thấy chiếc kiếm (đã bị gãy làm 3 đoạn). Pháp cho hàn lại nhưng vẫn phát hiện ra nếu nhìn kỹ. Sau này, người Pháp mang kiếm trao cho bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại) và bà Mộng Điệp (người tình Bảo Đại). Về sau, không biết ai quản chiếc kiếm này tiếp theo.
Còn chiếc ấn của Bảo Đại, sau khi Hà Nội giải phóng, Chính phủ đào lên vẫn còn nguyên vẹn, giao cho Viện Bảo tàng lịch sử bảo quản. Không may đã bị trộm lấy mất!
Cũng có thông tin cho rằng, cặp ấn kiếm này được mang ra Hà Nội. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, người Pháp tìm được trong một thùng thiếc và trả lại triều Nguyễn. Bà Bùi Mộng Điệp đã nhận ấn và kiếm từ tay người Pháp. Khi Bảo Đại từ Pháp về Đà Lạt, đã nhận lại những báu vật này.
Năm 1953, chiến tranh chống Pháp diễn ra ác liệt, Bảo Đại giao cho bà Mộng Điệp mang sang Pháp. Tại Pháp, bà Mộng Điệp đã trao lại cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng tử Bảo Long, trưởng nam của Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu. Khoảng năm 1982, sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (người Pháp), ông nhận lại chiếc ấn từ con trai mình. Từ đó, không còn thấy ai nhắc gì tới chiếc ấn này nữa
13 đời vua 46 ấn, tỷ Theo nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân, dấu của vua có hai loại là tỷ và ấn. Tỷ làm bằng ngọc nên gọi là ngọc tỷ, bửu ty. Ấn đúc bằng vàng gọi là ngự ấn, bửu ấn. Ấn, tỷ của nhà vua đều có hình vuông. Các vua Nguyễn có rất nhiều tỷ, ấn. 13 đời vua nhà Nguyễn có tổng cộng khoảng 46 tỷ ấn. Trong đó, triều Gia Long có 6 chiếc ấn bằng vàng; triều Minh Mạng, chế thêm 8 chiếc... Những chiếc ấn, tỷ đều có tên gọi và sử dụng riêng. Chẳng hạn, chiếc Hoàng đế chi bửu: đóng trên giấy tờ liên quan đến lễ khánh tiết, ghi ân, dụ thân huân, tuần du các địa phương, ban sắc thư cho nước ngoài; Hoàng đế tôn thân chi bửu: dùng trong dịp kính dâng huy hiệu; Quốc gia tín bửu: dụ chỉ gọi phát quân lính, tuyên gọi tướng soái... Các tỷ, ấn cùng với các loại kim sách, ngân sách, phù tín (hổ phù) bằng vàng, bạc được cất giữ trong các tráp, hòm tại điện Cần Chánh. Đến đời Khải Định và Bảo Đại, một số báu vật được lưu giữ tại điện Càn Thành và được bảo mật tuyệt đối. Nếu không có lệnh vua thì không một người nào được tự tiện mở ra xem. Hằng năm, trước khi nghỉ Tết, được lệnh vua, các quan làm lễ Phất thức mở các hòm, các tráp kiểm kê các báu vật rồi dùng nước thơm rửa từng chiếc. Tiếp đó dùng khăn vải điều lau khô và đặt vào chỗ cũ theo danh sách viết bằng chữ Hán.
Theo Đất Việt