Phải chăng HSG và NKG đang hồi sinh?
Sau giai đoạn kinh doanh khó khăn trong năm 2018 và 2019, 2 ông lớn của ngành tôn Việt Nam là CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG) và CTCP Thép Nam Kim (NKG) vừa công bố báo cáo tài chính quý I/2020 với kết quả kinh doanh rất khả quan.
Ảnh Internet
ối với HSG, doanh thu trong quý I đạt 5778,5 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 201 tỷ đồng, tăng trưởng tới 277,9% so với cùng kỳ. Về phía NKG, tuy doanh thu giảm 16,7%, nhưng lãi ròng của Công ty quý này đạt 41,5 tỷ đồng so với con số lỗ 101,6 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.
Kết quả kinh doanh lạc quan như vậy, giá cổ phiếu của 2 doanh nghiệp này tăng mạnh. Từ đầu tháng 4 đến nay, giá cổ phiếu HSG đã tăng 69,75%, đóng cửa ở mức 7.350 đồng/cổ phiếu ngày 29/4. Cổ phiếu NKG cũng ghi nhận mức tăng ấn tượng 50% so với thời điểm đầu tháng 4.
Sự đồng thuận của giá cổ phiếu và kết quả kinh doanh phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư về sự hồi sinh của 2 ông lớn ngành tôn trong tương lai. Liệu điều này có thực sự khả thi và kết quả kinh doanh tích cực trong quý I của 2 doanh nghiệp này có duy trì trong thời gian tới?
Trên thực tế, bối cảnh hiện tại của ngành tôn trong nước đang gặp nhiều thách thức hơn là những cơ hội khi nghĩ về tương lai.
Nguồn cung vượt cầu
Nhìn lại quá khứ, giai đoạn 2013 – 2018 từng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành thép trong nước, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất tôn mạ.
Tình hình sản xuất và tiêu thụ tôn.
Mức tiêu thụ tôn trong nước đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm lên tới 20,5% và đứng đầu nhóm các sản phẩm thép. ặc biệt, trong năm 2016, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ tôn của cả nước đạt tới 32,1%.
iều này đã mở ra một năm kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tôn trong nước. Cũng trong năm này, HSG đã đạt được con số kỷ lục trong lịch sử kinh doanh với mức lãi 1.753 tỷ đồng và NKG là 517 tỷ đồng.
Việc thị trường tiêu thụ thuận lợi khiến các doanh nghiệp ồ ạt mở rộng đầu tư, tăng công suất trong giai đoạn sau đó. Tới cuối năm 2018, 6 doanh nghiệp đứng đầu chiếm tổng cộng 83% thị phần của toàn ngành, với tổng công suất đạt gần 5 triệu tấn.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ lúc bấy giờ cũng chỉ đạt 3,8 triệu tấn. Sang năm 2019, tình hình trở nên khó khăn hơn, tiêu thụ toàn ngành giảm 2,1%. ây cũng là năm đầu tiên chứng kiến mức tiêu thụ toàn ngành tăng trưởng âm trong vòng 10 năm trở lại đây.
Video đang HOT
Tốc độ hấp thụ của thị trường không theo kịp với tốc độ gia tăng công suất khiến các nhà máy chỉ huy động công suất trung bình khoảng 65% so với tổng công suất thiết kế.
Thậm chí, nhiều nhà máy phải đóng cửa hoặc chuyển nhượng để duy trì dòng tiền cho doanh nghiệp. Nhìn chung, việc đẩy mạnh đầu tư mở rộng trong những năm vừa qua đã khiến tổng công suất vượt nhu cầu tiêu thụ khá nhiều, gây nên sự không hiệu quả trong vận hành sản xuất của các doanh nghiệp.
Chính sách bảo hộ ngành thép trên thế giới khiến xuất khẩu tôn trong nước gặp khó khăn
Bên cạnh sự yếu đi của nhu cầu trong nước, một nguyên nhân khác khiến tiêu thụ tôn cả nước trong năm 2019 tăng trưởng âm là do sự chậm lại từ thị trường xuất khẩu. Nguyên nhân chính đến từ các chính sách bảo hộ thương mại trên toàn thế giới.
Xuát khẩu tôn các doanh nghiệp.
Từ đầu năm 2019 đến nay, tôn mạ Việt Nam liên tiếp rơi vào các vụ kiện và điều tra tự vệ thương mại lớn. Một số nước tại thị trường chủ lực ông Nam Á đã điều tra và áp thuế đối với sản phẩm của Việt Nam.
Tháng 9, Malaysia sẽ áp biên độ phá giá từ 3,7-20,13% đối với thép cuộn cán nguội và thép không hợp kim xuất khẩu từ Việt Nam. Trong khi Indonesia quyết định khởi xướng điều tra chống bán phá giá với tôn mạ trong nước.
Gần đây là nhất là vào cuối 2019, một trong những thị trường xuất khẩu tôn chủ lực của Việt Nam là Mỹ chính thức áp thuế hơn 450% với các sản phẩm thép Việt Nam có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc, trong đó chủ yếu là các mặt hàng tôn mạ.
Những vụ kiện chống phá giá khiến xuất khẩu tôn mạ cả nước năm 2019 chỉ đạt 1,41 triệu tấn, giảm 19,42% so với cùng kỳ. Con số này chiếm 37,64% tổng lượng tiêu thụ và giảm so mức 45,7% của năm 2018.
Biên lợi nhuận phụ thuộc vào giá nguyên liệu
Trước năm 2017, Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào sản xuất được nguyên liệu đầu vào của ngành tôn và ống thép là thép cuộn cán nóng (HRC). Nguồn nguyên liệu phục vụ quá trình sản xuất tôn trong nước chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc và một số nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật, Nga…
Giai đoạn sau năm 2017, Nhà máy Formosa Hà Tĩnh chính thức đi vào hoạt động với nguồn cung HRC cho thị trường trong nước đạt khoảng 4 triệu tấn mỗi năm, đáp ứng được 50% nhu cầu tiêu thụ của cả nước.
iều này góp phần giảm phụ thuộc vào nguồn HRC nhập khẩu, cũng như giúp các doanh nghiệp tránh được một số rào cản thương mại về nguồn gốc xuất xứ.
Mặc dù vậy, chi phí nguyên vật liệu chiếm tới hơn 80% chi phí sản xuất và do vẫn phải phụ thuộc vào 50% nguồn cung nhập khẩu nên biến động giá HRC thế giới sẽ tác động mạnh đến biên lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất tôn.
Biên lợi nhuận của HSG – NKG có xu hướng ngược với giá HRC.
Trong năm 2015 và đầu năm 2016, khi giá HRC có xu hướng giảm về vùng đáy 2.000 CNY/tấn, biên lợi nhuận của HSG và NKG bắt đầu gia tăng. Không chỉ vậy, việc duy trì tỷ lệ hàng tồn kho cao giúp HSG và NKG được hưởng lợi khi giá HRC tăng trở lại với tỷ suất lợi nhuận gộp có thời điểm lên tới 25% trong năm 2016.
Tuy nhiên, giai đoạn sau đó, giá HRC liên tục duy trì ở mức cao khi Trung Quốc đóng cửa nhiều nhà máy thép, nên biên lãi gộp của HSG và NKG giảm mạnh về vùng đáy 8% và 0,6% vào thời điểm cuối năm 2018.
Từ đầu năm 2019, giá HRC bắt đầu hạ nhiệt giúp biên lợi nhuận của HSG và NKG dần phục hồi. ây cũng là nguyên nhân chính giúp HSG và NKG đạt được con số lợi nhuận ấn tượng trong quý I năm nay, bất kể doanh thu có sự suy giảm.
Tuy vậy, xét trên tổng thể, việc phụ thuộc quá nhiều vào diễn biến giá nguyên liệu lại là một rủi ro lớn, thay vì là một cơ hội. Biên lợi nhuận của doanh nghiệp có duy trì được trong những quý sau hay không phụ thuộc vào diễn biến của giá nguyên liệu trong tương lai.
Dự án Dung Quất của Hòa Phát sẽ làm thay đổi cục diện ngành tôn trong nước
ặc thù ngành sản xuất tôn mạ là khâu cuối cùng của toàn bộ chuỗi giá trị ngành thép. Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất tôn sẽ nhập nguyên liệu đầu vào là thép cuộn cán nóng hoặc cán nguội, sau đó cán lại, gia công và cắt thành tôn.
Do đây là khâu sản xuất có mức độ đầu tư vốn và độ khó thấp nhất trong tổ hợp ngành thép, nên doanh nghiệp hầu như không thể tạo được lợi thế cạnh tranh trong quá trình sản xuất sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, tình hình sẽ thay đổi trong năm 2020 khi dự án Dung Quất giai đoạn II với công suất 2 triệu tấn HRC/năm của CTCP Tập đoàn Hòa Phát (HPG) đi vào hoạt động.
Với Dung Quất, HPG sẽ là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam sản xuất tôn tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào. iều này sẽ đem lại lợi thế lớn về chi phí sản xuất cho HPG so với việc nhập khẩu hoặc thu mua HRC từ nguồn bên ngoài.
Bên cạnh sức ép mà HPG có thể đem lại trong tương lai, thì việc gia tăng nguồn cung HRC cũng sẽ đem lại một số lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp sản xuất tôn trong nước.
ầu tiên là ngành tôn sẽ giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu bên ngoài, giúp giá nguyên vật liệu ít bị biến động hơn.
Sau cùng là bài toán về bảo hộ thương mại được gỡ một phần khi các doanh nghiệp chứng minh nguồn gốc xuất xứ là đến từ trong nước.
Như vậy, không những chiếc bánh thị trường tôn đang dần bị thu hẹp lại, 2 ông lớn của ngành tôn HSG và NKG còn phải đối mặt với rủi ro là phải sẻ chia chiếc bánh này cho một đối thủ mới và nặng ký hơn mang tên Hòa Phát.
Không chỉ là tái cấu trúc lại bộ máy, HSG và NKG cần phải có nhiều biện pháp quyết liệt hơn để có thể cải thiện được hiệu quả kinh doanh trong tương lai.
PV Power (POW) báo lãi sau thuế 505 tỷ đồng quý 1, giảm 45% so với cùng kỳ
PV Power đã hoàn thành gần 25% chỉ tiêu lợi nhuận được giao cho cả năm.
Tổng công ty Điẹn lực Dầu khí Việt Nam - CTCP (PV Power - mã chứng khoán POW) công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý 1/2020 với doanh thu và lợi nhuận đều giảm sút so với cùng kỳ.
Cụ thể, doanh thu thuần quý 1 đạt 7.975 tỷ đồng, giảm 5,7% so với cùng kỳ trong khi chi phí giá vốn chỉ giảm 2,4% nên lợi nhuận gộp thu về đạt 1.020 tỷ đồng, giảm 22,3% so với quý 1/2019. Biên lợi nhuận gộp đạt 12,8%.
Nguyên nhân doanh thu giảm mạnh chủ yếu do doanh thu bán hàng tại các công ty con như Thủy điện Hủa Na, Nhiệt điện dầu khí Nhơn Trạch 2, CTCP Máy - thiết bị dầu khí... giảm mạnh.
Doanh thu tài chính trong quý đạt 86,7 tỷ đồng, giảm 14,4 tỷ đồng so với cùng kỳ chủ yếu do giảm lãi chênh lệch tỷ giá dù tổng thu lãi tiền gửi trong quý đạt hơn 63 tỷ đồng, tăng 22 tỷ đồng so với cùng kỳ. Trên BCTC công ty ghi nhận, tiền và tương đương tiền đến cuối kỳ còn hơn 5.400 tỷ đồng, trong đó có 5.095 tỷ đồng tiền gửi tại các ngân hàng có kỳ hạn dưới 3 tháng. Ngoài ra còn khoản tiền gần 700 tỷ đồng tiền gửi ngân hàng kỳ hạn trên 3 tháng đến dưới 12 tháng.
Chi phí tài chính trong quý hơn 410 tỷ đồng, tăng 88 tỷ đồng so với cùng kỳ, trong đó có chi phí lãi vay 243 tỷ đồng và lỗ chênh lệch tỷ giá 136 tỷ đồng. Tổng nợ phải trả đến cuối kỳ 27.082 tỷ đồng, trong đó vay nợ thuê tài chính ngắn hạn 8.555 tỷ đồng (giảm 602 tỷ đồng so với đầu năm) và vay nợ thuê tài chính dài hạn 8.269 tỷ đồng (giảm 125 tỷ đồng so với đầu năm).
Trong quý, chi phí quản lý doanh nghiệp còn 76,5 tỷ đồng, giảm hơn 40 tỷ đồng so với cùng kỳ. Nguyên nhân do quý 1 năm nay công ty hoàn nhập các khoản dự phòng gần 40 tỷ đồng.
Kết quả, quý 1 PV Power còn lãi sau thuế 505 tỷ đồng, giảm đến 45% so với lợi nhuận đạt được trong quý 1 năm ngoái, trong đó lợi nhuận sau thuế thuộc về cổ đông công ty mẹ đạt 444 tỷ đồng.
Tổng nợ xấu đến cuối quý 1 vẫn còn 1.918 tỷ đồng trong đó giá trị có thể thu hồi hơn 1.300 tỷ đồng. Tổng giá trị hàng tồn kho còn 2.010 tỷ đồng (trong đó có 6 tỷ đồng trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho) - tăng gần 600 tỷ đồng so với thời điểm đầu năm. Giá trị hàng tồn kho tăng chủ yếu ở việc gia tăng giá trị nguyên, vật liệu tồn kho. Số dư nguyên vật liệu tồn kho chủ yếu nằm ở giá trị của dầu DO, than và các nguyên vật liệu, giá trị vật tư, thiết bị nhập khẩu dự phòng phục vụ việc sửa chữa, đại tu các dự án nhà máy...
Trước đó PV Power đã xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2020 trên cơ sở giá dầu 60USD/thùng và tỷ giá 1USD=23.500 VND. Trong đó dự kiến doanh thu toàn tổng công ty đạt gần 35.449 tỷ đồng, tăng nhẹ so với doanh thu đạt được năm 2019. Mục tiêu lợi nhuận trước thuế khoảng 2.395 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế giảm mạnh khoảng 28,4% so với cùng kỳ, xuống còn gần 2.044 tỷ đồng.
Như vậy kết thúc quý 1/2020 PV Power đã hoàn thành 22,5% kế hoạch doanh thu và gần 25% chỉ tiêu lợi nhuận được giao cho cả năm.
Giao dịch chứng khoán sáng 23/4: Cổ phiếu HSG tiếp tục "nóng", VN-Index chưa thể bứt tốc Cặp đôi ngành thép HPG và HSG đang là tâm điểm giao dịch của nhà đầu tư trong phiên sáng, khi có thanh khoản cao và đều tăng tốt. Trong khi đó, chỉ số thị trường có dấu hiệu gặp khó tại ngưỡng 785 điểm khi áp lực bán dâng cao. Trong phiên hôm qua, VN-Index mở cửa nhanh chóng lao dốc mất...