PCI 2020: Bình Dương vươn lên mạnh mẽ, TPHCM dậm chân tại chỗ
Ngày 15/4, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) công bố Báo cáo thường niên Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2020.
Trong các tỉnh phía Nam thì Long An và Bình Dương là 2 tỉnh có kết quả tăng vượt bậc, nằm trong nhóm địa phương có chỉ số năng lực cạnh tranh rất tốt, top 5 trong Bảng xếp hạng. Trong khi, đó TP.HCM là đầu tàu kinh tế phía Nam nhưng thứ hạng vẫn dậm chân tại chỗ với vị trí 14.
Cảng kết nối các trục động lực giúp Long An thêm thu hút đầu tư
Báo cáo thường niên Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2020 đưa Bình Dương lên đứng thứ 4 trong bảng xếp hạng với tổng điểm là 70,16 điểm. Bình Dương là địa phương có sự cải thiện mạnh mẽ nhất trong bảng xếp hạng khi tăng 9 bậc so với năm 2019. Trong đó tiêu chí đánh giá tích cực của doanh nghiệp về gia nhập thị trường tăng 1,22 điểm, công tác hỗ trợ doanh nghiệp tăng 0,91 điểm.
Kết quả này có được là do Bình Dương đã thực hiện tốt cơ chế một cửa liên thông đăng ký doanh nghiệp và giải quyết các thủ tục về đầu tư; thực hiện công khai minh bạch cơ chế, chính sách, quy trình, thủ tục hành chính về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký đầu tư. Song song đó, Bình Dương cũng tăng cường sự phối hợp với các ngành, các cấp hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết vướng mắc để các dự án nhanh đi vào hoạt động. Chính vì vậy, năm 2020 mặc dù kinh tế khó khăn do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 nhưng Bình Dương vẫn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được hơn 1 tỷ 850 triệu USD, vượt 31,8% so với kế hoạch năm.
Video đang HOT
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tư tại Bình Dương
Việc Bình Dương nằm trong tốp các tỉnh, thành phố có chỉ số PCI rất tốt là tín hiệu vui đối với chính quyền và doanh nghiệp. Ông Trần Thành Trọng, Giám đốc Công ty Cổ phần Sáng Ban Mai ở Bình Dương cho rằng, kết quả này là nỗ lực rất lớn của chính quyền trong cải cách thủ tục hành chính và kết nối tốt với doanh nghiệp. Tuy nhiên, Bình Dương cần cải thiện hơn nữa về tinh thần phục vụ doanh nghiệp:
“Bình Dương cần tiếp tục cải thiện tinh thần phục vụ người dân, doanh nghiệp của cấp ở cấp xã, phường, thị trấn, huyện trong tỉnh. Bình Dương nhanh chóng cải thiện hạ tầng kết nối hạ tầng giữa Bình Dương với các tỉnh lân cận, nhất là TP.HCM, giảm chi phí logicstic, chi phí vận chuyển cho doanh nghiệp”, ông Trọng nói.
Long An lần đầu tiên vươn lên vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng PCI 2020 với 70,37 điểm, tăng 5 bậc so với năm 2019. Theo ý kiến của các doanh nghiệp thì đây là sự đánh giá xứng đáng đối với địa phương này, bởi thời gian qua Long An đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ trong điều hành kinh tế; thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Trong đó, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, chủ động tạo thuận lợi, thông thoáng cho doanh nghiệp triển khai các dự án. Là địa phương năng động, tích cực, chủ động trong hợp tác quốc tế và tìm kiếm các cơ hội phát triển, ngay sau khi các làn sóng của đại dịch Covid-19 được đẩy lùi, Long An đã sẵn sàng với nhiều dự án trọng điểm nhằm đón đầu làn sóng dịch chuyển trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp hoạt động tại Bình Dương đang mở rộng sản xuất.
Ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch HĐQT Đồng Tâm Group – chủ đầu tư cảng Quốc tế Long An mong muốn: “Hạ tầng của Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những địa phương khu vực có hạng tầng kém nhất nước, khiến kinh tế của khu vực khó phát triển. Tôi mong rằng sắp tới có Đảng, Nhà nước có nhiều chính sách quyết liệt hơn để tỉnh Long An cũng như khu vực ĐBSCL phát triển đồng đều hợp lý để những đầu tư vừa qua mang tính hiệu quả. Đặc biệt là đầu tư hạ tầng giao thông, qua đánh giá của PCI là vấn đề đề này còn có những khó khăn”.
So với năm 2019, chỉ số PCI năm 2020 của TPHCM, trung tâm kinh tế số một của cả nước không được cải thiện khi vẫn xếp ở vị trí thứ 14 với tổng điểm là 65,70 nhưng giảm gần 1,5 điểm so với năm 2019. Theo một số chuyên gia kinh tế việc TPHCM không có cải thiện trong bảng xếp hạng PCI là bởi thời gian gần đây, thành phố có nhiều điểm nghẽn, trong đó phần lớn liên quan đến thủ tục đất đai, bất động sản…
Chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch cho rằng: Thành phố cũng đã thấy những điểm hạn chế hiện nay và đã đặt ra những mục tiêu để đẩy mạnh cải cách hành chính và cải thiện chỉ số PCI thời gian sắp tới.
“Thành phố nên tập trung tháo gỡ những vướng mắc những dự án đầu tư hiện nay về thủ tục thủ tục để tạo niềm tin cho các doanh nghiệp do tồn đọng 1 số năm. Thành phố có rất nhiều dự án do khách quan là vướng mắc do một số quy định nên một số dự án bị “đứng”. Thành phố phải tập trung tháo gỡ, tạo niềm tin và đồng hành cùng doanh nghiệp chứ không để 1 mình doanh nghiệp làm”, ông Lịch cho biết.
Kết quả này cho thấy nhiều địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã nỗ lực rất lớn trong cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, kết nối giao thông là vấn đề mà các tỉnh, thành phía Nam đang vướng. Các địa phương cần có sự kết nối tốt với nhau và có sự đầu tư đồng bộ của bộ, ngành Trung ương. Riêng với TP.HCM-đầu tàu kinh tế của cả nước thì không chỉ cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh mà còn phải chủ động kết nối hạ tầng giao thông, liên kết kinh tế vùng để cùng phát triển.
Sau 2 năm, tỉ lệ DN hưởng 'trái ngọt' từ CPTPP chưa cao
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, xuất khẩu của Việt Nam đi các thị trường đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chỉ đạt kim ngạch xấp xỉ 2019.
Cứ 4 doanh nghiệp (DN) thì mới có một DN đã từng được trải nghiệm "trái ngọt" từ Hiệp định này. Tuy nhiên, tín hiệu tích cực là tỉ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP trong năm thứ 2 đã được cải thiện.
Toàn cảnh hội thảo - Ảnh:VGP/Anh Minh
Đây là thông tin được chia sẻ tại Hội thảo công bố Báo cáo "Việt Nam sau 2 năm thực thi CPTPP từ góc nhìn doanh nghiệp" do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Chương trình Aus4Reform - Đại sứ quán Australia tại Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 7/4 tại Hà Nội.
Hiệp định CPTPP có hiệu lực đã hơn 2 năm, nhưng theo báo cáo của VCCI, những gì đã đạt được còn thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng, nguyên nhân không chỉ từ các biến cố khách quan như tình hình căng thẳng thương mại toàn cầu hay đại dịch COVID-19, mà còn ở các vấn đề chủ quan của chính Nhà nước và các DN.
Phát biểu tại hội thảo, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho biết, năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, xuất khẩu của Việt Nam đi các thị trường đã phê chuẩn CPTPP chỉ đạt kim ngạch xấp xỉ năm 2019. Tuy nhiên, tín hiệu tích cực là tỉ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP trong năm thứ 2 này đã được cải thiện.
Mặc dù vậy, việc hiện thực hóa các cơ hội từ CPTPP còn hạn chế mà theo các DN nhìn nhận là do sự thua kém về năng lực cạnh tranh, các biến động đầy tính bất định của thị trường.
Các DN phản ánh những vướng mắc như: Vẫn thiếu thông tin về các cam kết, các hạn chế khác trong tổ chức thực thi Hiệp định CPTPP và các hiệp định thương mại tự do (FTA) của các cơ quan nhà nước... Cuối cùng là một số nguyên nhân kỹ thuật như quy tắc xuất xứ, cam kết FTA bất lợi cho DN...
Khảo sát mức độ hiểu biết của DN về CPTPP, VCCI cho biết: Có 69% DN nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định này, cao hơn tất cả các FTA khác; 25% DN có hiểu biết nhất định về Hiệp định. Dù vậy, đáng lo là cứ 20 DN mới có một DN biết rõ về các cam kết CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
"Kết quả này cho thấy các nỗ lực tuyên truyền phổ biến chung về CPTPP đã có hiệu quả ban đầu tích cực nhưng mới trên bề mặt là chủ yếu", Chủ tịch VCCI nhận định.
Về các tác động trực tiếp, cứ 4 DN thì mới có một DN đã từng được trải nghiệm "trái ngọt" từ Hiệp định CPTPP.
Đáng nói nhất là trong khi các DN FDI và dân doanh có cảm nhận rõ về tác động của CPTPP (với 51-52% DN của các nhóm này cho rằng CPTPP có tác động tích cực) thì khối DN 100% vốn nhà nước phần lớn đứng ngoài những tác động này.
"64% DN có vốn nhà nước 100% cho rằng CPTPP không tác động gì, với các FTA khác cũng như vậy. Dường như quá trình hội nhập theo chiều sâu thông qua CPTPP và các FTA chưa chạm tới khu vực này", VCCI cho biết. Các DN FDI và dân doanh đã khởi động để tận dụng các ưu đãi thuế quan đầu tiên của Canada và Mexico, trong khi đó các DN 100% vốn nhà nước lại hầu như chưa hề tận dụng được cơ hội này.
Dưới góc độ thu hút đầu tư nước ngoài, kết quả năm đầu thực thi CPTPP không mấy khả quan. Năm 2019, Việt Nam thu hút xấp xỉ 9,5 tỷ USD vốn đầu tư từ các nước CPTPP, giảm gần 36% so với năm 2018. Xét theo từng đối tác, đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam có mức giảm sâu nhất về giá trị (từ gần 9 tỷ USD năm 2018 giảm xuống còn hơn 4 tỷ USD năm 2019, tương đương giảm 52%).
Về tốc độ, vốn FDI giảm mạnh từ các nguồn truyền thống như Australia (giảm gần 63%), Malaysia (giảm 50%)... Mặc dù có một số lý do kỹ thuật khiến tốc độ tăng trưởng trong thu hút FDI từ CPTPP bị kéo mạnh nhưng trong tổng thể chung đây vẫn là kết quả ít nhiều gây thất vọng, đặc biệt khi tổng thu hút vốn FDI của Việt Nam từ tất cả các nguồn năm 2019 vẫn tăng 7,2% và tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của các đối tác CPTPP vẫn tăng 51,3% trong năm này.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) phân tích: với 3/4 DN chưa từng hưởng lợi ích trực tiếp nào từ CPTPP, lý do chủ yếu (60%) là họ không có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào liên quan tới thị trường hay đối tác ở khu vực CPTPP trong hai năm vừa qua.
Điểm đáng lưu ý nữa là các cơ quan quản lý đã cố gắng hoàn thiện thể chế để thực thi CPTPP, trong đó, Quyết định 121/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực thi CPTPP của Chính phủ đã liệt kê cụ thể danh mục các văn bản cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung và thời hạn thực hiện. Nhưng đến khi thực hiện, phần lớn các văn bản thực thi CPTPP đều được ban hành chậm tiến độ so với yêu cầu của cam kết (từ nửa tháng đến 20 tháng).
Với thực trạng trên, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho rằng, các chương trình, hoạt động hỗ trợ DN cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống, được thiết kế theo nhóm đối tượng riêng, với ưu tiên đặc biệt dành cho các DN nhỏ, siêu nhỏ.
Bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) phân tích thêm, ở các sản phẩm nông sản, Việt Nam đã cố gắng cải thiện chất lượng, nhưng vì còn sản xuất nhỏ lẻ nên khó khăn trong cải thiện một cách đồng bộ.
Để tiếp tục tận dụng tốt hơn Hiệp định này thời gian tới, bà Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, các cơ quan quản lý cần rà soát quy định pháp luật liên quan, cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN. Đồng thời, tăng cường về truyền thông, thông tin về thị trường, định hướng cho DN trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, giúp nâng cao năng lực cho DN
"Cần xác định rõ, gia nhập Hiệp định CPTPP ngoài việc giúp DN tăng xuất khẩu thì còn là động lực để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sức ép về cạnh tranh buộc DN phải nâng cao tiêu chuẩn hàng hóa và năng lực của mình", bà Nguyễn Cẩm Trang nhấn mạnh.
Doanh nghiệp lơ mơ về các cam kết của Hiệp định CPTPP 69% DN nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định CPTPP, 25% DN có hiểu biết nhất định, tỷ lệ các DN biết rõ về các cam kết CPTPP còn rất ít. Tại Hội thảo "Hai năm thực thi Hiệp định CPTPP tại Việt Nam - đánh giá góc nhìn từ doanh nghiệp" do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...