Ô tô Việt: những nỗi ám ảnh chưa dứt
Sau 17 tháng chờ đợi, đến nay, những cơ chế, chính sách cụ thể để phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam giai đoạn từ 2020-2035 đã được Chính phủ ban hành. Tuy nhiên, các DN lại lo lắng liệu những chính sách này có đi vào thực tế?
Các DN cho biết với quyết định này việc đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước thời gian tới sẽ có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, nhiều DN vẫn băn khoăn về khả năng thực hiện những chính sách này ra sao, liệu có đem lại hiệu quả như mong muốn?
Lo chuyện vay vốn
Làm thế nào để vay được vốn ưu đãi? Thời gian qua, đã có nhiều chính sách ưu đãi vốn vay cho DN được Chính phủ ban hành, nhưng thực tế lại rất khó khăn khi thực hiện. Chẳng hạn, năm 2009, Chính phủ đã ban hành cơ chế chính sách cho vay vốn ưu đãi từ VDB với các dự án trọng điểm về cơ khí, trong đó có ô tô, nhưng đến nay có thể nói là đã thất bại.
Cụ thể, theo Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg do Chính phủ ban hành tháng 1/2009, các dự án thuộc chương trình cơ khí trọng điểm được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước từ VDB tối đa 85% tổng mức vốn đầu tư của dự án. Khi đó, nhiều DN cơ khí hy vọng sẽ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất.
Hầu hết DN ô tô khi được hỏi đều hồ nghi, đặt câu hỏi về việc vay vốn ưu đãi
Trên thực tế, số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI) cho thấy, trong Danh mục dự án cơ khí trọng điểm đến năm 2015, có 11 dự án đã được chấp thuận với tổng vốn trên 9.978 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau 5 năm, chỉ 3 dự án được VDB ký hợp đồng tín dụng với số vốn 374 tỷ đồng. Giá trị giải ngân tính đến cuối năm 2014 chỉ đạt xấp xỉ 61 tỷ đồng. Với số vốn giải ngân vừa nhỏ giọt, lại vừa chậm như vậy, thì chẳng dự án nào có hiệu quả như mong đợi.
Trong số đó, phải kể đến dự án vay 250 tỷ đồng để sản xuất linh kiện ô tô của Công ty CP ô tô Xuân Kiên (Vinaxuki). Dự án này được lập từ năm 2009, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được đồng vốn nào.
Công ty ô tô Trường Hải cũng có dự án sản xuất động cơ Diesel với tổng vốn đầu tư gần 200 triệu USD, được vay vốn ưu đãi theo Chương trình cơ khí trọng điểm từ VDB, nhưng do thủ tục xét duyệt kéo dài, nên thời cơ qua đi.
Ông Huyên cho biết dự án của Vinaxuki sau khi được Chính phủ chấp thuận, VDB cũng đồng ý cho vay nhưng vì là dự án vay ưu đãi lãi suất thấp nên xét duyệt rất phức tạp. Hội đồng xét duyệt có tới 26 vị, thuộc 7-8 bộ ngành khác nhau mà chưa lần họp nào triệu tập đủ. Thủ tục rườm rà, nhiêu khê như vậy thì DN sẽ nản lòng.
Để phát triển ngành công nghiệp ô tô với xuất phát điểm thấp như hiện nay cần nguồn vốn rất lớn, lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng với lãi suất thấp chỉ 3%/năm và thời gian vay kéo dài từ 8-12 năm. Với đòi hỏi này, các ngân hàng thương mại không thể đáp ứng được. DN chỉ có thể trông chờ vốn từ Chính phủ.
Video đang HOT
Không có vốn thì không thể đầu tư cho dây chuyền thiết bị sản xuất hiện đại, không nhận được chuyển giao công nghệ, không đào tạo được nguồn nhân lực, chắc chắn sẽ không thể phát triển. Nếu các thủ tục cho vay khó khăn, rườm rà sẽ mất đi cơ hội.
Chính vì vậy, hầu hết DN ô tô khi được hỏi đều hồ nghi, đặt câu hỏi về việc vay vốn ưu đãi từ VDB, có đổi mới không, hay vẫn đi theo “vết xe đổ” trước đây. Nếu vẫn như cũ thì chính sách khó đem lại hiệu quả thực tế.
Ngập ngừng đầu tư
Với các dự án ô tô ưu tiên, theo quy định, có 5 dòng xe gồm xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn có sức chở đến 3 tấn; xe khách tầm trung và tầm ngắn chạy liên tỉnh, nội đô; xe cá nhân chở người đến dưới 9 chỗ ngồi dung tích động cơ dưới 1.5L, xe tiết kiệm nhiên liệu, giá cả phù hợp; các loại xe chuyên dùng và xe nông dụng nhỏ đa chức năng.
Một số DN ô tô cho biết họ đang quan tâm đến sản xuất xe ưu tiên và cũng hiểu rằng, Chính phủ sẽ có ưu đãi đặc biệt cho các dự án này, giống như trong lĩnh vực điện tử thời gian qua. Các dự án chắc chắn sẽ được ưu đãi về đất đai, hạ tầng, thuế thu nhập DN…
Song, theo các DN, ưu đãi với dòng xe cá nhân còn quá ít. Cụ thể đến 2018, thuế suất thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ ASEAN về Việt Nam giảm còn 0%. Khi đó, giá xe nhập khẩu sẽ thấp hơn xe lắp ráp trong nước 20%, nếu đầu tư mà không khỏa lấp được chênh lệch này sẽ chịu rủi ro rất lớn.
Lấy ví dụ từ Philippines, đại diện của Toyota Việt Nam nhận xét, từ 2010 khi thực hiện cam kết giảm thuế suất thuế nhập khẩu ô tô từ ASEAN về 0%, sản lượng xe sản xuất trong nước của nước này giảm liên tục, hiện chỉ còn 100.000 xe/năm. Các DN rất chật vật cạnh tranh với xe nhập khẩu, mặc dù Chính phủ Philippines đã có chính sách hỗ trợ cho mỗi ô tô sản suất trong nước khoảng 600 USD thông qua việc giảm thuế và từ 2016 nâng lên 1.000 USD.
Tuy nhiên, đến nay chỉ còn 3 DN ô tô có vốn đầu tư nước ngoài trụ lại. Tập đoàn Ford sau một thời gian vật lộn đã tuyên bố rút lui từ đầu 2016, chuyển sang nhập khẩu xe về phân phối. Trong số 3 DN ô tô còn tồn tại thì Toyota có sản lượng lớn nhất, cũng chỉ sản xuất 2 mẫu xe là Innova và Vios nhưng không hiệu quả, vẫn lấy lợi nhuận từ xe nhập khẩu để bù đắp. Các nhà sản xuất khác như Mitsubishi và Nissan khó khăn không kém.
Các DN công nghiệp ô tô Việt Nam FDI cho biết dù Chính phủ đã ban hành cơ chế chính sách ưu đãi, nhưng quyết định đầu tư hay không đến nay vẫn rất khó khăn. Đặc biệt, với chính sách có thể tạo ra ưu thế cho xe trong nước như thuế tiêu thụ đặc biệt nay không thể thực hiện, vì vậy rất khó để nói các dự án ưu đãi có đủ hấp dẫn bởi sản xuất ô tô rất khác với điện tử.
Theo_VietNamNet
Ford rời Nhật Bản, Indonesia, cơ hội nào cho Việt Nam?
Liệu, việc Ford rút hoạt động của mình tại Nhật và Indonesia có mang lại cơ hội nào cho Việt Nam, quốc gia được đánh giá là thị trường lớn thứ 3 của Ford tại Đông Nam Á?
Ford "rút quân" khỏi Nhật và Indonesia
Nhà máy Ford Hải Dương. Ảnh: Nguyên Đức.
Vừa qua, hãng xe Ford đã tuyên bố xe rời khỏi thị trường Nhật Bản và Indonesia trong năm nay, nơi mà hãng này đã phải đấu tranh để giành thị phần. Lý do mà Ford đưa ra khi rút quân khỏi thị trường Nhật và Indonesia là điều kiện thị trường tại hai quốc gia này khiến hãng không thể phát triển bán hàng hay có lợi nhuận bền vững.
Điều này có nghĩa là khi năm 2016 kết thúc, các đại lý của Ford sẽ dừng nhập khẩu và bán hàng thương hiệu Ford và Lincoln (thương hiệu con của Ford). Nhật Bản được xem là thị trường khép kín nhất. Hiện ở Nhật, các thương hiệu nhập khẩu chiếm chưa đến 6% thị trường xe mới hàng năm, điều này khiến cho các hãng xe khó len chân được vào thị trường này.
Thậm chí, nhiều hãng xe cũng cáo buộc chính phủ nước này đã sử dụng nhiều biện pháp để bảo trợ cho các nhãn hiệu ô tô sản xuất trong nước. Vì vậy, mặc dù đã hoạt động tại Nhật từ 1974, với tất cả 52 đại lý trong nước, nhưng thị phần của Ford tại đây chỉ chiếm 1,5% thị phần của xe nhập khẩu với lượng bán ra chỉ vỏn vẹn 5.000 chiếc.
Indonesia, thị trường lớn thứ 2 trong khu vực ASEAN 6 với hơn 250 triệu dân lại là thị trường không triển vọng của Ford. Hãng bắt đầu hoạt động tại quốc gia này từ năm 2002, có 35 nhân viên và bán hàng thông qua 44 đại lý nhượng quyền. Nhưng, năm ngoái, hãng này chỉ bán được 6.100 chiếc xe (cả xe tải và ô tô), chiếm chỉ 0,6% thị phần xe nhập khẩu mới.
Hãng này sẽ chính thức rời khỏi 2 thị trường này vào cuối năm nay sau khi hoàn thành các cam kết về dịch vụ cung cấp phụ tùng và sửa chữa.
Các nhà phân tích thị trường cho biết: Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP với sự tham gia của 12 quốc gia cũng không thể khải thiện được tình hình kinh doanh của Ford ở thị trường này.
Cơ hội nào cho Việt Nam?
Trong email gửi đến các nhân viên và đại lý trong khu vực, Dave Schoch, Chủ tịch Ford khu vực Châu Á Thái Bình Dương viết: "Thật đáng tiếc, điều này cũng có nghĩa các thành viên trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi sẽ không còn làm việc tại Ford Nhật Bản hay Ford Indonesia sau khi các trung tâm này đóng cửa". Theo đó, khi Ford rút quân khỏi Nhật, bộ phận phát triển sản phẩm của Ford sẽ được chuyển sang quốc gia khác trong khu vực, nhưng vẫn chưa được tiết lộ.
Dù gặp khó tại Nhật và Indonesia, nhưng năm 2015, Ford đạt được mức tăng trưởng đáng kể ở Đông Nam Á. Theo số liệu vừa được công bố, tổng doanh số bán lẻ trên toàn khu vực Đông Nam Á trong năm 2015 là 103.975 xe, tăng trưởng 3.3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thành công về doanh số của Ford lại không phải đến từ các thị trường lớn nhất trong khu vực như Thái Lan và rõ ràng là cả Indonesia mà là ở các quốc gia mới nổi trong khu vực. Trong đó, Việt Nam đã vươn lên trở thành thị trường lớn thứ 3 của Ford trong khu vực với mức tiêu thụ 20.740 xe, tăng 48% trong năm 2015.
Thế nhưng, liệu việc vươn lên trở thành thị trường lớn thứ 3 của hãng xe này trong khu vực có mang đến cơ hội cho Việt Nam? Khi hãng này rút hoạt động của mình tại Nhật Bản, Indonesia và đang phải tìm kiếm một quốc gia thay thế?
Việt Nam được đánh giá là một thị trường ô tô đầy tiềm năng với hơn 90 triệu dân số, chủ yếu là dân số trẻ và tỷ lệ sở hữu xe hơi vẫn còn ở mức độ thấp. Năm 2015, thị trường xe Việt cũng đạt được nhiều bước tiến khi tiêu thụ tới 245.0000 ô tô. Ford cũng là thương hiệu chiếm thị phần khá lớn tại thị trường Việt Nam trong năm nay.
Nhưng trong khi thị trường được đánh giá là có nhiều khởi sắc, thì vẫn chưa có một tín hiệu đáng mừng nào cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong năm 2015. Thậm chí, từ giữa 2015, ngành công nghiệp ô tô nước ta còn cho thấy nhiều dấu hiệu ảm đạm, mở đầu là việc Toyota đang tính toán việc rời khỏi Việt Nam sau 20 năm.
Lý do được đưa ra là chi phí sản xuất ô tô tại Việt Nam hiện cao hơn tới 20% so với quốc gia láng giềng Thái Lan và nguồn cung cấp linh kiện của các doanh nghiệp nội địa vẫn còn yếu.
Đồng thời, nhiều hãng sản xuất đang có nhà máy lắp ráp tại Việt Nam cũng lo ngại, việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết chung từ cộng đồng kinh tế ASEAN (năm 2018) sẽ khiến nền công nghiệp ô tô của Việt Nam thêm nhiều khó khăn khi ô tô của các nước có thể ồ ạt vào Việt Nam.
Về phía liên doanh Ford, nhà máy sản xuất của hãng này đặt tại Hải Dương có công suất 14.000 xe/năm với nhiều dòng xe ăn khách như Transit, Everest, Escape, Ranger, Mondeo, Focus, Laser, Fiesta và Ecosport. Tức là dù hoạt động hết công suất, thì số xe xuất xưởng từ Ford Hải Dương vẫn chưa đủ để cung cấp cho nhu cầu thị trường trong nước.
Nhìn lại bối cảnh chung trong khu vực, mặc dù thị trường nội địa liên tiếp suy giảm trong 4 năm, nhưng Thái Lan vẫn là thị trường xuất khẩu nhiều xe nhất trong khu vực với mức tăng trưởng 6,8 triệu xe. Quốc gia này vẫn xuất khẩu tới 1,2 triệu chiếc xe.
Hiện, Ford cũng xây dựng tại đây 3 nhà máy sản xuất và tung ra thị trường khu vực nhiều sản phẩm ăn khách như Ranger hay Foucs. Thái Lan cũng trở thành quốc gia cung cấp ô tô chủ yếu cho thị trường Việt Nam với lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc đổ về Việt Nam trong năm 2015 lên tới 25.000 chiếc trong năm 2015.
http://ictnews.vn/cong-nghe-360/o-to-xe-may/ford-roi-nhat-ban-indonesia-co-hoi-nao-cho-viet-nam-135086.ict
Theo_Zing News
TS Khương Quang Đồng:Giấc mơ ôtô Việt Nam có thể hồi sinh Sau hơn 20 năm hoạt động, sự tồn tại của ngành sản xuất ô tô Việt Nam đang bị đe dọa vì phải cạnh tranh trực tiếp với Thái Lan, Indonesia. TS Khương Quang Đồng, chuyên gia có hơn 30 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành ô tô tại Pháp chia sẻ như vậy với Đất Việt. PV: - Ngành ô tô...