Nữ anh hùng “ngã ba lửa” Bến Thủy
Bà phụ trách cửa hàng ăn uống Bến Thủy, suốt 8 năm bám trọng điểm, lo lắng, chăm sóc từng bát cơm, từng tấm bánh cho biết bao chiến sĩ, công nhân sống chết với “ngã ba lửa” – cửa ngõ tiến vào mặt trận phía Nam.
Những ngày cuối tháng 7, chúng tôi tới thăm bà Hoàng Thị Liên tại căn nhà khang trang trên phố Lê Duẩn (TP Vinh, Nghệ An). Bà năm nay bước sang tuổi 81 nhưng giọng nói vẫn dõng dạc, đi lại nhanh nhẹn, và ấn tượng nhất là bà luôn nhỏm nhẻm nhai trầu.
Bà Hoàng Thị Liên là người phụ nữ từng tảo tần lo từng miếng cơm, hớp nước cho biết bao chiến sĩ, công nhân từng sống chết với “ngã ba lửa” Bến Thủy, cửa ngõ tiến vào mặt trận phía Nam.
Thời bom đạn, ngã ba Bến Thủy là trọng điểm bắn phá ác liệt. Sau cuộc chiến tranh phá hoại, ngã ba Bến Thủy có 9 tập thể, 7 cá nhân được Đảng, Quốc Hội, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý; Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động.
Chị Hoàng Thị Liên gặp gỡ báo chí năm 1968 tại Bến Thủy (ảnh do nhân vật cung cấp).
Riêng tập thể phà Bến Thủy được 2 lần phong đơn vị Anh hùng và 2 cá nhân Anh hùng, trong đó có bà Hoàng Thị Liên – người phụ trách cửa hàng ăn uống Bến Thủy suốt 8 năm bám trọng điểm.
Bà kể, Mỹ đánh vào vùng Bến Thủy ngày 5/8/1964, khi đó con bà – cậu bé Trần Văn Quỳnh mới 8 tháng tuổi. Ngày đó, chiến tranh đạn bom rơi như mưa, bà buộc phải đưa cháu về quê Thanh Đồng (huyện Thanh Chương) nhờ mẹ chăm hộ, rồi bươn bả về cơ quan đóng tại thị xã Vinh.
Anh hùng Lao động Hoàng Thị Liên.
Bà kể rằng, từ tháng 4/1965, cả thị xã sơ tán, riêng bà xin ở lại phục vụ chiến đấu. Trận địa hoạt động ngành thương nghiệp trải khắp thị xã đổ nát, hoang tàn. Bà như con thoi khâu nối từng bộ phận cung ứng thực phẩm, tìm mua nguyên liệu rồi sắp xếp người chế biến, người mang hàng tới trận địa pháo phòng không, binh trạm vận tải, phà Bến Thủy, cảng Bến Thủy… Những ngày ấy, không gian, mặt đất thị xã Vinh như chao đảo, vỡ vụn, khét lẹt bởi bom đạn, chết chóc, căng thẳng…
Nhưng bà Liên với chiếc xe đạp Thống Nhất vẫn miệt mài vượt bãi bom nổ chậm ra ngoại thành tìm mua lương thực, rau xanh, bầu, bí, đậu, củ của bà con nông dân Hưng Nguyên, Nghi Lộc; rồi xuống xuống tận Cửa Hội mua nước mắm. Mà nào phải yên bình như bây giờ. Phải tìm đường tránh, đường tắt vượt qua nhiều trọng điểm đánh, phá của máy bay Mỹ. Bà kể: “Nhiều lúc cứ nghĩ đến các chiến sĩ đang đói phải đánh giặc thế là tôi cùng mấy chị em liều mình băng dưới trời đạn bom mà đi tìm thức ăn về phục vụ… Tôi lúc đó chỉ mong đi tới đâu kiếm được chút rau, hoa quả, cân thịt… là mừng là vui lắm rồi, có nghĩ đến chết chóc mô chú”, bà Liên cười nhớ lại.
Bà Liên nhớ như in cái thời chẳng biết sợ bom đạn, chỉ sợ các chiến sĩ của ta thiếu đói, không có sức đánh giặc.
Sau khi mua được thực phẩm, đêm về, bà và cả tổ phục vụ lại tất tả xay trấu xay gạo, giã bột chế biến bánh nướng, bánh bao, cơm nắm, rồi cả phở “không người lái” để kịp chuyển ra các điểm phân phối trọng điểm, vượt sông bờ Bắc Bến Thủy.
Quăng quật, chao đảo đạn bom dưới căn hầm nửa chìm, nửa nổi cách mố bắc bến phà chưa tới 800m, bà Liên cùng tổ phục vụ ăn uống vẫn đều đặn mỗi ngày bảo đảm suất ăn cho công nhân phà Bến Thủy, nhà máy điện, cảng Bến Thủy, các đoàn xe quân sự vượt sông Lam.
Đoàn của bà với 6 chị em mỗi ngày đêm lo 3.000 suất ăn cho cảng Bến Thủy, 800 suất ăn cho phà Bến Thủy, 1.500 suất ăn cho nhà máy điện Vinh, 250 suất ăn cho nhà máy sửa chữa ô tô B230. Đấy là chưa tính những thời khắc phà tắc, hàng trăm chiếc xe phải sơ tán, tổ ăn uống Bến Thủy còn phải lo đủ bữa ăn cho các đơn vị bộ đội nằm chờ vượt sông.
Video đang HOT
“Ngày đó tôi cùng mấy chị em phục vụ ăn uống cho các chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ vùng Bến Thủy này cũng như nhiều cán bộ đi B mà có nghĩ gì đâu, chỉ mong họ được ăn, được uống để chiến đấu thôi. Giờ tôi nghĩ lại, cái ngày bom đạn cày như cày ruộng mà mấy chị em phục vụ hàng ngàn suất ăn thật là phi thường quá”, bà Liên nhớ lại.
Bà Liên tâm sự cùng PV Dân trí.
Bà Liên cũng nhớ lại cái ngày chiến tranh ác liệt không được giấc ngủ ngon: “Công việc túi bụi, chị em chúng tôi tranh thủ chợp mắt ngay trong căn hầm, bên bếp lửa, thương nhớ chồng con cũng chỉ nhoáng về một lát rồi lại quay về căn hầm khoét sâu vào núi Quyết chuẩn bị suất ăn cho hàng nghìn người đang bám trụ tại phà Bến Thủy”.
Chiến tranh phá hoại làm ngưng trệ hoạt động cung cấp lương thực, thực phẩm. Bà Liên cùng với các chị trong tổ đã phải đi thu gom số gạo bị bom đạn xé nát, bị ngấm nước từ các kho chứa lương thực, tổ chức xay bột chế biến các loại bánh, bún, phở. Chị Liên hướng dẫn chị em xay bột đậu xanh làm nhân bánh, cốt sao bảo đảm nhu cầu “ăn no, ăn có sức mà đánh Mỹ”. Cố gắng là vậy nhưng bà vẫn thấy mình có lỗi khi không thể lo cho các chiến sĩ những bữa ăn đảm bảo dinh dưỡng hơn.
“Hồi đó nghĩ là quyết luôn, tôi đạp xe tới các hợp tác xã nông nghiệp ở Nghi Đức, Nghi Phong (huyện Nghi Lộc ngày nay), xã Nam Cường (huyện Nam Đàn) xin mua lại những con bò gầy yếu, không còn sức cày kéo để về vỗ béo. Tôi mua hàng trăm con bò thải gom về nuôi trong những căn hầm dưới chân núi Quyết. Rồi đến những cánh đồng hoang, cỏ mọc tốt tươi bên hố bom, trong khuôn viên cơ quan, phường, xã, khu phố sơ tán trở thành nguồn thức ăn cho đàn bò của tôi được béo lên và làm thịt phục vụ chiến tranh”, bà kể.
Những bức ảnh quý của bà Liên đóng thành khung và đặt ngay trên đầu giường ngủ
Thời đó, bà cũng thuê người chăn dắt, quản lí chặt chẽ từng con bò mỗi ngày. Những con bò trong chiến tranh cũng quen dần với hầm hào, quen với tiếng bom đạn, với tiếng gào rú của máy bay Mỹ dần dà con nào con nấy béo lên. Nguồn thực phẩm tươi sống dồi dào ấy đã giúp bà Liên cải thiện bữa ăn cho biết bao người lính Trung đoàn 280, Trung đoàn 233, Trung đoàn 214, công nhân phà Bến Thủy, cảng bến Thủy, nhà máy điện, đoàn vận tải Hồng Hà, binh trạm 9…
Bà Liên nhớ lại: “Có ngày cửa hàng mổ thịt tới 7 con bò đã vỗ béo. Tôi còn thuê người vỡ đất hoang dưới chân núi Quyết trồng mấy nghìn mét vuông mía, đổi mía cây lấy hàng nghìn tấn đường chế biến bánh, kẹo, nước giải khát. Tôi còn tận dụng hố bom nuôi cá, xây bể thả lươn, nuôi chim bồ câu, tăng nguồn thực phẩm tươi sống, nâng chất lượng thức ăn phục vụ khách hàng trong những năm tháng thiếu thốn trăm bề”.
Vườn mía bà Liên trồng để phục vụ được Phó Thủ tướng Trần Phương hồi đó về thăm.
Được giao phụ trách 10 cửa hàng phục vụ ăn uống ở thị xã Vinh lúc bấy giờ, khi mà mấy năm liên tục lửa đạn ngút trời, bà Liên vận động chị em nuôi lợn thịt dưới hầm, dưới hào. Còn bà thì đạp xe lên tận hợp tác xã ba Tơ (xã Hưng Thái, huyện Hưng Nguyên), gặp gỡ anh hùng nông nghiệp Cao Lục liên kết nuôi lợn nái, lợn thịt. Lãnh đạo tỉnh ngỡ ngàng, đồng nghiệp ngành thương nghiệp Nghệ Tĩnh thời đó sửng sốt khi biết bà Liên có đàn lợn thịt gần 500 con và đàn lợn sinh sản gần 200 con.
Có vị lãnh đạo Bộ Nội thương thời đó vào Khu 4 từng nói về sự táo bạo, năng động của bà Liên: “Chừng ấy khối lượng hàng hóa, chừng ấy công việc phải điều hành nếu trong thời bình đã là một sự thách thức lớn đối với người quản lí nam giới. Bà ấy đã làm được trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Bà ấy quả là anh hùng”.
Bà Hoàng Thị Liên vinh dự được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa chúc mừng ngày bà được Nhà nước công nhận Anh hùng Lao động.
Điều tiên đoán ấy từ năm 1971 đã trở thành hiện thực khi Đảng, Quốc Hội, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Hoàng Thị Liên vào năm 1985. Sau ngày được phong Anh hùng, bà Liên được giao cương vị quản lí cao hơn và với phẩm chất, bản lĩnh trải nghiệm trong chiến tranh, bà đã vực dậy cả một công ty làm ăn thua lỗ, trả được món nợ Nhà nước gần 3 tỉ đồng vào những năm đầu đổi mới.
Với bà, hôm nay vẫn còn đọng mãi ký ức về lớp chiến sĩ trẻ vào chiến trường thuở bom đạn đã được bà chăm sóc từng suất ăn, giấc ngủ trong mấy căn hầm dã chiến.
Bà Liên trong cuộc sống thời bình
Bà kể: “Thời đó ai cũng trẻ lắm, đứa nào cũng gửi lại một vài vật kỷ niệm, hẹn ngày chiến thắng gặp tôi. Sau giải phóng miền Nam, một tốp chiến sĩ đã tìm tới cửa hàng gặp tôi. Chúng nó công kênh tôi lên rồi hét to: “Thế là sống rồi chị ơi!”. Thế nhưng phần đông trong số họ không bao giờ thực hiện được lời hứa với tôi. Họ nối nhau ngã xuống ở chiến trường vì cuộc sống yên bình hôm nay”. Bà nói rồi lau vội giọt nước mắt.
Hai chị em bà Liên đều phục vụ trong chiến tranh đều được nhà nước phong tặng những danh hiệu cao quý.
Bà Liên xứng đáng với những danh hiệu được Nhà nước phong tặng.
Trong 8 năm thực hiện chiến tranh phá hoại, ngăn chặn hệ thống giao thông, vận tải chi viện miền Nam, ngã ba Bến Thủy, được ví như “cuống họng Khu 4″. Không quân và hải quân Mỹ đã ném xuống đây 25.898 quả bom các loại, bắn từ biển vào 1.371 viên đạn pháo từ 230 li đến 406 li. Trên diện tích mặt đất và mặt sông rộng khoảng 1km2, từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến trước ngày ký Hiệp định Pa-ri, lực lượng bảo đảm giao thông, công nhân nhà máy điện, nhà máy gỗ, cảng Bến Thủy… phải gồng mình, đối mặt với 3.498 trận đánh phá khốc liệt.
Nguyễn Duy
Theo Dantri
Cầu Cấm - những ngày bi tráng và lãng quên?
Một địa danh nằm trên tuyến đường huyết mạch dẫn vào mặt trận phía Nam, mà ở đấy máu xương bộ đội, thanh niên xung phong đổ xuống không thể đo, đếm... đang bị quên lãng suốt hơn 46 năm qua!
Biết bao lần chung tôi đã tới bến phà sông Gianh, phà Long Đại, phà Xuân Sơn, đường 20 "Quyết Thắng", ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn - những địa danh máu lửa, khốc liệt thời chống Mỹ cứu nước. Ở đâu cũng bắt gặp tầng thấp, tầng cao hình khối kiến trúc mỹ thuật hoành tráng, tôn nghiêm với chất liệu xây lắp bền vững, muôn đời tưởng nhớ anh linh lớp lớp anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong ngã xuống vì non sông đất Việt. Riêng tập thể 13 liệt sỹ C317 TNXP (Truông Bôn) hy sinh ngày 31/10/1968 đã được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang năm 2007.
Mỗi lần dâng hoa, dâng hương tưởng niệm, chung tôi không khỏi bùi ngùi, xa xót, chạnh nhớ tới một địa danh nằm trên tuyến đường huyết mạch dẫn vào mặt trận phía Nam, mà ở đấy máu xương bộ đội, thanh niên xung phong đổ xuống không thể đo, đếm... đang bị quên lãng suốt gần 50 năm qua.
Trọng điểm ấy có tên Cầu Cấm, nơi thắt nút ba huyết mạch giao thông đường bộ 1A; đường sắt Bắc - Nam, đường thủy (kênh Nhà Lê). Sau trận ném bom xuống Kho Xăng, phà Bến Thủy, cảng Bến Thủy, ngày 25/3/1965 không quân Mỹ ồ ạt đánh phá cầu Cấm, ga Mỹ Lý, cầu Đò Đao, cầu Bùng, cầu Yên Xuân nằm trên trục đường quốc lộ 1A và tuyến đường sắt chạy vào Minh Cầm (Quảng Bình). Giữa năm 1966, khu vực cầu Cấm còn phải hứng chịu hàng vạn quả đạn pháo 175 ly, 230 ly từ chiến hạm của Hải quân Mỹ cầm canh câu vào thâu đêm, suốt sáng.
Không quân Mỹ sau những phi vụ tàn phá trong đất liền, trước khi đáp xuống hàng không mậu hạm, chúng trút xuống cầu Cấm những quả bom, rốc-két còn sót lại. Mặt đất, mặt sông, triền núi thung lũng cầu Cấm đêm, ngày mù mịt, khét lẹt khói bom, đất cát bầm đen, trộn lẫn mảnh gang quăn queo, sắc lạnh. Người dân phải khoét vách núi, đào hầm sinh hoạt, bám đất phục vụ chiến đấu che chở cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông đường sắt, đường bộ, đường thủy vượt qua trọng điểm cầu Cấm.
Bí Thư Trung ương đoàn Vũ Quang thăm lực lượng TNXP tại trọng điểm Cầu Cấm (1969) (ảnh tư liệu).
Năm 1965, cầu Cấm bị đánh 800 trận, năm 1966 bị đánh 1.200 trận, năm 1967 hệ thống giao thông vận tải miền Bắc bị đánh 27.00 trận, riêng trọng điểm cầu Cấm bị ném bom, pháo kích 5.000 trận bình quân mỗi ngày, đêm có 300 lượt máy bay Mỹ ném bom, bắn rốc-két và trọng liên 20 ly 7.
Cùng lúc tuyến đường bộ dài 15km và đường sắt 5km qua trọng điểm cầu Cấm bị băm nát từ ga Mỹ Lý đến xóm Bắc Long, nghĩa trang Cây Dừa, kênh Nhà Lê chạy sát đường 1A, đường sắt bị phong tỏa tọa độ từng mét vuông pháo kích, bom nổ chậm, bom từ trường. Nhận rõ vị trí "sống chết" trọng điểm giao thông vận tải cầu Cấm, cửa ngõ phía Bắc hậu phương lớn miền Bắc nên đế quốc Mỹ đánh phá bằng mọi giá. Trong năm 1967, bọn giặc lái Mỹ trút xuống cầu Cấm 27.000 quả bom các loại, tàu chiến thuộc hạm đội 7 bắn vào 5.000 quả đạn pháo từ 175 ly đến 230 ly.
Cũng từ ngày 27/7/1965, sau ngày ra quân của 22.000 chiến sĩ thanh niên xung phong tập trung, các đại đội 302 - 324 - 339 - 317 - 318, phơi phới những gương mặt tươi trẻ, quả cảm hành quân về trọng điểm "chảo lửa cầu Cấm".
Đầu năm 1966, Tổng đội Thanh niên xung phong Nghệ An chuyển giao cho Tổng cục đường sắt 9 đại đội, biên chế vào đội 69, trực tiếp bảo đảm giao thông vận tải tuyến đường sắt từ ga Hoàng Mai vào ga Minh Cầm (Quảng Bình). Họ bám tuyến vận tải đường sắt, đường bộ chủ yếu từ ga Hoàng Mai, ga Giát, ga Yên Lý, ga Chợ Si, cầu Đò Đao, cầu Cấm, cầu Yên Xuân, ga Vinh làm nhiệm vụ sửa chữa tuyến đường sắt bị bom phá, vận chuyển hàng, sơ tán hàng và chiến đấu đánh trả bọn giặc lái Mỹ.
Tại trọng điểm cầu Cấm ác liệt, các đại đội 815, 803, 820, 829, 333, 819, 802, 744, 203 thuộc đội 69 được cắm chốt bảo vệ "nút thắt" giao thông đường sắt trong tọa độ lửa từ năm 1966 đến ngày 31/10/1968, thời điểm Giôn Sơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Trên thực tế, cầu Cấm nằm sâu sau vĩ tuyến 20 nên vẫn trong tầm bắn phá của không quân và hải quân Mỹ bất kể lúc nào.
Cứ sau mỗi đợt bom dội, từ nơi trú quân Diễn Thọ, Diễn Lộc, Nghi Yên, Nghi Thuận, Nghi Long, các đại đội Thanh niên xung phong đường sắt, đường bộ lại hối hả đổ vào cầu Cấm. Đài quan sát của Quân khu 4 trên đỉnh 200 và mỏm 35 Thần Vũ thông báo cho lực lượng bảo đảm giao thông vị trí bị bom phá, vị trí có bom nổ chậm, bom từ trường. Các trận địa pháo phòng không K8, K9, K10 thuộc tiểu đoàn 16 chốt tại Cống Hóp, vườn Mít, trại Chè sẵn sàng nổ súng bảo vệ Thanh niên xung phong san lấp hố bom.
Tiểu đoàn 16 đã bắn rơi tại chỗ một máy bay F4H, một AD6, bắt sống giặc lái nhưng để bảo vệ mục tiêu cầu Cấm, từ năm 1966 đến năm 1968, hơn 100 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống tại trận địa. Hơn một nghìn ngày bảo đảm thông tuyến, thông cầu ở "túi bom, vòng cung lửa", kể từ trận bom 26/3/1965, chiến sĩ Thanh niên xung phong Lê Bá Khương, quê xã Nam Trung, Nam Đàn, đại đội 208, đội 69 hy sinh, tới đầu năm 1968 đã có 33 cán bộ, chiến sĩ Thanh niên xung phong bị bom, đạn quân thù sát hại khi bám cầu, bám đường thông tuyến.
Nụ cười ra quân thông đường thông cầu đội TNXP 69, Cầu Cấm năm 1966 (ảnh tư liệu).
Tổn thất lớn nhất là 8 giờ 30 phút tối mồng 5/2/1967, một đợt pháo kích tọa độ dội xuống đội hình Thanh niên xung phong đang hối hả san lấp hố bom phía Bắc cầu Cấm, giây lát cướp đi sinh mạng của 15 cán bộ, chiến sĩ đang độ thanh xuân, sung sức.
Danh sách liệt sĩ thanh niên xung phong đội 69 và đội 65 hy sinh tối 5/2/1967 được lập ngày 30/6/1968 của Ban Thanh niên xung phong đường sắt phía Nam, có chữ ký xác nhận của Trưởng ban Phạm Thị Phòng. Mười lăm cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong đội 69 và 65 hy sinh tối 5/2/1967 đều có chung ngày nhập ngũ 6/5/1965.
Đã gần 50 năm trôi qua, nhắc lại sự tích bi tráng tối 5/2/1967, trung tá Nguyễn Đình Mạch - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn cao xạ 16, quê Nghi Hải, huyên Nghi Lộc và đại úy, y tá Hoàng Văn Nhu không sao cầm được nước mắt. Đêm tàn khốc ở mố bắc cầu Cấm năm ấy, hai ông đã cùng cán bộ, pháo thủ, đồng đội TNXP đội 69 gạt nước mắt, nhặt nhạnh, khâm lượm thi thể liệt sĩ rồi cùng dân quân Nghi Yên, Nghi Long an táng 15 liệt sĩ tại nghĩa trang Cây Dừa, thuộc địa phận xóm Bắc Long, cạnh trận địa cao xạ Cầu Hói.
Hai cựu chiến binh Nguyễn Đình Mạch, Hoàng Văn Nhu cũng như biết bao cựu chiến binh, cựu TNXP, các thân nhân liệt sỹ mỗi khi tới cầu Cấm ôn lại năm tháng hào hùng, khốc liệt tại trọng điểm cầu Cấm rất mong có một khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải chống Mỹ cứu nước.
Thế nhưng đã không biết bao nhiêu lần những cựu chiến binh tiểu đoàn 16, cựu TNXP và người thân liệt sỹ đành ngậm ngùi thắp nén nhang vái bốn phương trời đất, giữa thung lũng cầu Cấm đang ngày một vươn cao những công trình thế kỷ. Nỗi day dứt này xin chuyển tới lãnh đạo tỉnh Nghệ An, ngành Giao thông vận tải dù muộn màng cũng nên đầu tư tâm, sức xây dựng công trình tri ân xứng tầm với sự hy sinh máu xương của các anh hùng liệt sỹ.
Những người con xứ Nghệ đã xả thân, đổ máu xương vì sự sống tuyến đường vào miền Nam cách đây 46 năm gồm: 1, Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1948, Hưng Khánh, Hưng Nguyên, C815. 2, Duy Thị Hoán, sinh 1948, Thanh Cát, Thanh Chương, C815, đảng viên, tiểu đội trưởng. 3, Nguyễn Văn Đại, sinh 1947, Thanh Bình, Thanh Chương, C803. 4, Hoàng Thị Liên, sinh năm 1945, xã Thanh Liên, Thanh Chương, C820. 5, Trần Văn Lân, sinh năm 1946, xã Thanh Nho, Thanh Chương, đơn vị C823. 6, Trần Thị Thái, sinh năm 1947, Thanh Hà, Thanh Chương, C819. 7, Trần Thị Minh, sinh năm 1947, Hưng Thái, Hưng Nguyên, C794. 8, Phan Văn Kim, sinh năm 1947, Thanh Bình, Thanh Chương, đơn vị C802. 9, Nguyễn Thị Tỵ, sinh năm 1949, xã Thanh Bình, Thanh Chương, C830; 10, Hồ Thị Thu, sinh năm 1948, xã Nam Đông, Nam Đàn, C809. 11, Giản Tư Lợi sinh 1947, xã Thanh Cát, Thanh Chương, C32, tiểu đội trưởng. 12, Phùng Thế Đường, sinh năm 1949, xã Nghi Thu, Nghi Lộc, C874, chiến sĩ phá bom nổ chậm. 13, Nguyễn Trọng Vọng, sinh năm 1949, xã Nam Sơn, Nam Đàn, chiến sĩ phá bom nổ chậm. 14, Hoàng Thị Xuân, sinh 1949, xã Thanh Lĩnh, Thanh Chương, C823. 15, Trần Văn Hai sinh 1948, xã Thanh Đồng, Thanh Chương, C324, đội 65.
Văn Hiên - Nguyên Duy
Theo Dantri
Lũ chồng lên lũ, gần 40.000 học sinh phải nghỉ học Sau hoan lưu bao sô 11, Nghê An noi chung va TX Hoang Mai noi riêng tiêp tuc bi lu dâng cao va hang trăm hoc sinh ơ vung nay phai nghi hoc. Do ảnh hưởng của cơn bão số 11, và xả lũ ơ Vực Mấu nhiều trường học trên đia ban TX Hoang Mai buôc phai nghi hoc vi nươc dâng...