Nỗi lo nguồn nước nhiễm vôi ở Sơn Nguyên
Đến vùng cao xã Sơn Nguyên, huyện miền núi Sơn Hòa (Phú Yên) những ngày giữa tháng 8-2020, chúng tôi mới thấu hiểu hết nỗi lo của hơn 400 hộ gia đình ở nơi này từ nhiều năm qua đã phải sử dụng nguồn nước sinh hoạt bị nhiễm vôi.
Trao đổi với PV Báo CAND, ông Tạ Văn Hương – trú ở thôn Nguyên Trang, xã Sơn Nguyên cho biết: Gia đình tôi định cư ở nơi này từ năm 1993 và mưu sinh bằng nghề trồng trọt. Thổ nhưỡng ở đây đã giúp cho nhiều gia đình nông dân vượt khó, thoát nghèo từ các loại cây trồng mía, lúa, sắn, ngô…
Nguồn nước sản xuất nông nghiệp tạm ổn, nhưng nước sinh hoạt của người dân luôn là nỗi lo thường trực mỗi ngày, bởi lẽ hầu hết các giếng đào, giếng khoan đều trong tình trạng nhiễm phèn, nhiễm vôi nghiêm trọng… Các vật dụng chứa nước sinh hoạt đều có một lớp vôi lẫn phèn bám dày dưới đáy, tệ hại hơn nữa là xoong, nồi, ấm, chảo chỉ sau một, hai tuần sử dụng đun nấu bằng nước giếng ở các gia đình đều để lại dưới đáy một lớp vôi màu vàng sẻn.
Vôi bám dày dưới đáy các vật dụng chứa nước tại gia đình ông Tạ Văn Hương.
Nghe chúng tôi đề cập đến sức khỏe của người dân khi sử dụng nguồn nước sinh hoạt bị nhiễm phèn, nhiễm vôi, ông Hương chia sẻ: “Cách đây chừng 4 năm, tôi đến một phòng khám tư nhân ở TP Tuy Hòa để siêu âm tổng quát, bác sĩ kết luận tôi bị sỏi thận nên phải điều trị dài ngày bằng y học cổ truyền. Nghi ngờ thủ phạm là nước giếng bị nhiễm vôi nên từ đó gia đình tôi uống nước lọc đóng trong bình nhựa của các cơ sở sản xuất nước uống tinh khiết, nhưng vì tiết giảm chi phí nên vẫn sử dụng nước giếng để nấu ăn”.
Một người dân khác ở thôn Nguyên Trang là bà Ngô Thị Nhuẫn bày tỏ: “Sau một thời gian dài phát hiện nguồn nước từ giếng đào có nhiều phèn và vôi, gia đình tôi thuê nhóm thợ kỹ thuật tạo lập giếng khoan. Nhìn nguồn nước mới bơm lên từ giếng khoan rất trong, nhưng sau một đêm tích trữ trong bể chứa lắng đọng lại một lớp vôi trắng đục dưới đáy. Nếu không thường xuyên tẩy rửa các vật dụng đun nấu nước từ giếng đào đến giếng khoan thì hơn một tuần sẽ nhìn thấy lớp vôi dày bám cứng dưới đáy”.
Theo ông Cao Văn Tài, Phó trưởng thôn Nguyên Trang, toàn thôn có 274 hộ gia đình, nhà nào cũng có giếng đào hoặc giếng khoan để khai thác nguồn nước sinh hoạt hằng ngày, thế nhưng nhà nào cũng than phiền bởi tình trạng nhiễm phèn lẫn vôi. Một số gia đình đầu tư xây lắp bể lọc nước nhưng không thể nào “dọn” sạch được vôi, vài người mua máy lọc nước nhưng chất vôi tụ lại, buộc phải thay bộ phận lọc nước thường xuyên nên rất tốn kém. Dù chưa có con số thống kê nhưng không ít người mắc bệnh liên quan đến nguồn nước sinh hoạt, đa số bị sỏi thận.
Cùng tình cảnh đó, giếng đào, giếng khoan của 130 hộ gia đình ở thôn Nguyên Hà, xã Sơn Nguyên cũng nhiễm phèn, nhiễm vôi khá nặng.
Làm việc với UBND xã Sơn Nguyên, chúng tôi được biết, trên địa bàn xã đã có 3 công trình nước sinh hoạt tập trung ở 3 thôn Nguyễn Xuân, Nguyên An và Nguyên Cam được đầu tư xây lắp trong các năm 2009, 2015 với tổng công suất mỗi ngày đêm 790m3 do Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Sơn Nguyên quản lý và vận hành, chỉ còn 2 thôn Nguyên Trang, Nguyên Hà chưa có công trình nước sinh hoạt tập trung.
Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên từng thu thập mẫu nước từ các giếng đào, giếng khoan ở hai thôn nêu trên để kiểm nghiệm, kết luận nguồn nước bị nhiễm vôi, nhưng chưa có giải pháp hỗ trợ. Ông Đặng Văn Thiện, Chủ tịch UBND xã Sơn Nguyên cho biết, trong các cuộc tiếp xúc cử tri, người dân ở hai thôn Nguyên Trang, Nguyên Hà vẫn kiến nghị và mong chờ nhà nước đầu tư công trình nước sinh hoạt tập trung để đảm bảo ổn định đời sống và sức khỏe cho hơn 400 hộ gia đình.
Theo ông Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phú Yên, hiện nay nguồn vốn trong Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã đưa vào thực hiện trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. UBND tỉnh Phú Yên đã phân bổ nguồn vốn đó về các huyện, thị xã, thành phố để triển khai thực hiện nên UBND huyện Sơn Hòa cần sớm xem xét, xác lập kế hoạch lồng ghép các nguồn vốn khác để đầu tư công trình cấp nước tập trung ở những thôn, xóm đang có nhu cầu cấp thiết.
Video đang HOT
Theo định hướng chung trong điều chỉnh quy hoạch nước sạch và vệ sinh môi trường đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt có danh mục đầu tư thêm công trình nước sinh hoạt tập trung ở xã Sơn Nguyên với công suất mỗi ngày đêm 450m3 từ nguồn vốn ngoài ngân sách, vì thế UBND huyện Sơn Hòa cần huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp để sớm triển khai đầu tư phục vụ đời sống sinh hoạt cho người dân ở hai thôn Nguyên Trang và Nguyên Hà.
Ở nơi này, giữa 4 bề biển khơi, dân không nhớ nổi là mình đã đào bao nhiêu cái giếng
Từ những giếng nước cổ Chăm Pa đến hàng nghìn giếng mới san sát nhau trên đồng tỏi, nguồn nước chảy từ các mạch ngầm trên đảo lửa Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) như bầu sữa truyền sự sống cho cư dân đảo.
Nhưng mạch nguồn sự sống đó đang đứng trước nguy cơ dần cạn kiệt bởi những dãy phố giếng dày đặc quanh ốc đảo Cù lao Ré.
Người đâu giếng đấy
Đảo Lý Sơn sừng sững năm ngọn núi Vung, Giếng Tiền, Hòn Tai, Thới Lới và Vòng Sỏi. Dưới thung lũng ngũ hành sơn, xứ đảo Cù lao Ré (tên gọi xưa của đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) là làng cư dân hành tỏi, làng chài biển giã bên ngọn sóng đại dương.
Những giếng nước khổng lồ liền kề nhau như những dãy phố.
Và những ai đi quanh ốc đảo không lạ khi nhận ra giữa làng hay xen lẫn cánh đồng hành tỏi, đồng ngô, dưa hấu đầy giếng nước. Giếng cách làng, giếng cách nhà, giếng cách nhau vài bước chân. Cư dân đảo ngọc hay đùa "Giếng là đặc sản thứ ba ở xứ đảo, sau hành tỏi".
Ông Võ Bĩ (An Vĩnh, đảo Lý Sơn) bực bội vì đổ xăng vào máy bơm nước, khởi động hơn tiếng đồng hồ nhưng máy vẫn không chạy để hút chút nước còn sót dưới đáy giếng.
Trên diện tích 550 m đất trồng cánh đồng Sũng, ba giếng nước khổng lồ có đường kính 2,5 m, sâu 6 m mỗi giếng vẫn không cứu được số hành đang trồng dở.
Hai giếng khô khốc, trơ đáy chỉ có cây cỏ mọc quanh thành đá, rác lẫn chai lọ thuốc trừ sâu ngổn ngang bên dưới. Giếng còn lại trong vườn lưu chút nước cũng không đủ để máy bơm hút lên bờ.
Ông Võ Bĩ không nhớ mình có bao nhiêu cái giếng nước. Ba giếng khổng lồ ở vườn nhà đào từ hơn 20 năm trước, tưới cho 550 m hành tỏi. Gia đình ông thuê thêm 5.000 m để canh tác. Đất đâu giếng đấy. Ông thuê người đào thêm sáu giếng để lấy nước cho mình. Vài năm nước cạn, ông lại tiếp tục hành trình đóng giếng tìm nước ngọt.
"Đào với khoan nhiều lắm không thể nhớ là bao nhiêu cái giếng rồi. Mình thuê đất người ta để trồng thì phải đào giếng mới có nước. Họ đâu có cho xài chung. Chỗ nào dễ thì mình đào lộ thiên giếng lớn, chỗ nào khó thì mình đào xong đi dây, đi ống rồi lấp miệng giếng, trả lại hiện trạng cho họ. Sau này Ủy ban không cho đào nữa thì mình khoan sâu xuống. Nhiều quá không nhớ mình đã đào bao nhiêu cái đâu", ông Võ Bĩ lúng túng.
Ông Võ Bĩ không nhớ mình đã đào, khoan bao nhiêu giếng nước để trồng hành tỏi.
Trên cánh đồng Ruộng, đồng Thịt ở đảo Lý Sơn, những dãy giếng sát nhau. Chỉ 1.000 m cánh đồng Ruộng hơn 11 giếng đào lộ thiên, lớn nhỏ san sát. Phần lớn có chung số phận khô khốc, cạn kiệt nước.
Ngay từ đầu mùa hè, nhiều nhà nông đã không còn nước sạch để tưới đủ cho cây trồng. Từ sáng đến chiều, cánh nhà nông chạy vòng quanh tìm nước đưa về ruộng. Ông Lê Văn Lân sai con chạy quanh cánh đồng xem các điểm đấu nối của giếng đào với các điểm giếng khoan trước khi bật công-tơ điện chạy nước.
Giữa 20 m vườn tỏi là giếng nước lớn của gia đình. Sâu mươi mét, năm nào giếng cũng trơ đáy, ông phải lặn lội xin nhờ, thuê đất mấy chủ ruộng làng bên khoan sâu tìm nước. Ba giếng khoan cách ruộng hơn 200 m, đường dây, ống dẫn kéo về nối với giếng đào chính.
Nhờ lấy nước từ xa, nhiều nơi khác nhau nên ông chữa cháy ruộng mùa khô. "Một chỗ thì không đủ nước đâu. Bà con ở đây phải đi gom bằng cách thuê đất khoan giếng, hoặc nhờ giếng trong họ tộc kéo về. Các giếng to bây giờ thường là nơi tập kết nguồn nước ngầm khoan đóng phía dưới. Ai tranh thủ được thì tranh thủ thôi", ông Lân phân bua.
Làm đâu đào đấy. Giếng lộ thiên đến giếng âm trong lòng đất. Giếng nhỏ cho đến giếng khổng lồ dày đặc quanh đảo lửa Lý Sơn. Trên những thành giếng bê-tông khổng lồ, nhiều ống nước lớn nhỏ xen kẽ, chen chúc vòng quanh.
Nước từ các giếng khoan trong lòng đất theo ống dẫn chôn dưới bờ ruộng dẫn nước về các giếng "tổng" khổng lồ, tưới cho các ngả đồng ruộng. Giếng lớn lộ thiên là nơi tập trung nước, hút nước từ các giếng khoan âm trong lòng đất.Mạch nguồn nước xưa
Theo các di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh trên đảo Lý Sơn, 3.000 năm trước người xưa đã sinh sống ven các con suối, các núi lửa - nơi đó có mạch nguồn nước ngọt. Di chỉ Suối Chình, Suối Ốc, Suối Cạn, khe Nước chảy bên núi lửa Giếng Tiền in đậm dấu chân trăm năm xưa cũ. Lớp văn hóa cư dân Chăm Pa kế cận chọn địa mạch phong thủy trong việc đào giếng nước ngọt để sinh sống. Người Việt ra đảo Lý Sơn định cư từ đầu thế kỷ 17 lập nên các ngôi làng An Vĩnh, An Hải.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đảo Lý Sơn được hình thành trên cơ tầng các ngọn núi lửa vận động qua nhiều thời kỳ khác nhau, làm cho độ dốc của đảo kéo dài từ Tây sang Đông. Khi dòng nước chảy từ trên đỉnh cao nhất xuống thấp nhất và đổ ra biển, áp lực nước chảy xuống mạnh hơn nước ngoài biển thấm vào, nước ngọt thẩm thấu qua bề mặt tạo cho nguồn nước giếng ngọt và không bị nhiễm mặn.
Dưới chân núi Vung, giếng "Xó La" - giếng nước đầu tiên được đào trên đảo núi lửa. Giếng cổ có niên đại từ lâu đời, cấu trúc độc đáo với cấu trúc thành giếng hình tròn, cao 1,5 m, lòng giếng sâu gần 10 m. Bề mặt lòng giếng được chất bằng các loại đá lấy từ biển và các miệng núi lửa đảo Lý Sơn. Kỹ thuật kè đá quanh lòng giếng của người xưa công phu, chắc chắn.
Chếch về phía tây núi Vung, một giếng làng xưa chỉ cách biển khoảng 7 m, nước ngọt trong vắt quanh năm không cạn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là giếng nước từ thời người Chăm Pa định cư trên đảo. Ở sát mép biển nhưng giếng cho nước ngọt quanh năm. Cư dân Lý Sơn thường gọi tên với niềm trân trọng nguồn mạch là "Giếng Trời".
Theo nhà nghiên cứu Võ Nguyên Phong, người Việt, người Chăm có nhiều kinh nghiệm trong hành trình tìm mạch nguồn nước ngọt vùng ven biển, đảo. Đảo đá núi lửa Lý Sơn có địa chất địa tầng hình thành hoạt động mạnh tạo đồi và giữ nước bù cấp cho sự tiêu hao, sử dụng của con người.
"Những đồi lớn có đứt gãy địa chất, cây to phát triển là nơi có mạch nước ngọt. Những vùng có động cát hay đồi đá, vách đá có cây tự nhiên sẽ giữ được nguồn nước ngọt tốt nhất giữa vùng đảo nắng cháy. Dù chung quanh là Biển Đông, nước mặn nhưng cấu tạo địa chất đặc biệt từ đá núi lửa hay cát vẫn có nguồn nước ngọt và lưu trữ".
Dày đặc phố giếng trong lòng đảo
Cuộc sống hiện đại khiến văn hóa giếng làng, giếng họ trên ốc đảo Cù lao Ré cũng thưa dần. Từ những năm 2000, người dân Lý Sơn đào giếng nước riêng để thuận tiện sinh hoạt, sản xuất cho gia đình. Những giếng đào xuất hiện quanh nhà, lấy nước cho sinh hoạt, tiêu dùng. Giếng khổng lồ trên những cánh đồng hành tỏi, tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, dịch vụ. Nước cạn hạn mặn, giếng lại được đóng, khoan sâu hút mạch nguồn từ trong lòng đất đảo. Và những "phố giếng" ngày càng nhiều hơn, bí bách bao quanh cư dân bản địa.
Tình trạng khoan, đào giếng ở đảo Lý Sơn tăng nhanh trong mươi năm gần đây. Nếu như năm 2014, đảo Lý Sơn có khoảng 500 giếng nước thì đến nay toàn đảo "gánh" 2.150 giếng nước. Dung lượng nước hạn mức 16.000 m nhưng mức độ hút mạch nguồn 23.000 m/ngày, khiến các "phố giếng" trên đảo khô khốc quanh năm. Nếu như ngày trước, giếng đào rộng non mét thì những giếng khổng lồ bán kính 1,5 - 5 m ngày càng nhiều hơn. Giếng càng to nước càng ít. Phố giếng càng dày thì cư dân càng khát nước. Ông Võ Minh ở An Vĩnh, Lý Sơn thắc mắc "Khoan giếng cũng bị phạt mà không khoan nước đâu dùng. Không đường, không lối thì khoan sâu xuống chứ bà con biết làm sao!".
Để bảo vệ nguồn nước ngọt, địa phương cấm đào giếng trái phép trên đảo. Biện pháp cấp thời vẫn không ngăn chặn được chuyện nhiễm mặn lan sâu vào đảo. Dân số tăng, du lịch ồ ạt kéo theo nguy cơ vỡ trận nguồn nước ngọt chóng chày hơn. "Người đâu giếng đấy. Giếng khắp nơi, dọc dài như những con phố. Giếng mọc nước cạn, vài năm nữa thì giếng để làm cảnh ngắm thôi", ông Phạm Trai ở An Hải, huyện đảo Lý Sơn thở dài thườn thượt nhìn đáy giếng khô khốc.
Phó Chủ tịch UBND huyện đảo Lý Sơn Lê Văn Ninh cho biết, nhiều trường hợp khoan giếng trái phép của người dân để khai thác nước ngầm cho sinh hoạt, sản xuất bị xử lý nhưng việc lén lút khai thác nước ngầm bằng nhiều cách vẫn tái diễn. "Chúng tôi cũng vận động bà con hạn chế đào, khoan giếng để giữ nguồn nước ngầm đang cạn kiệt dần. Địa phương sẽ đầu tư xây dựng hồ chứa nước Giếng Tiền, An Bình để trữ nước mưa, để gánh bớt sử dụng nước ngầm ở đảo".
TP.HCM: Hướng đến năm 2030 giảm 75% rác thải nhựa trên biển Nhằm đảm bảo ngăn ngừa việc xả rác thải nhựa ra biển từ các nguồn thải trên đất liền và từ các nguồn thải trên biển, hướng đến mục tiêu giảm 75% rác thải nhựa trên biển vào năm 2030, mới đây, UBND TP.HCM đã ban hành Kế hoạch hành động về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030. Nhằm...