Nợ xấu nhiều ngân hàng tăng mạnh
14/16 ngân hàng đã công bố tài chính quý 3/2020 đều ghi nhận nợ xấu tăng trong 9 tháng đầu năm, trong đó có cả những ngân hàng lớn như Vietcombank, Sacombank, MBBank, ACB, VPBank.
Thống kê của chúng tôi tại 16 ngân hàng đã công bố BCTC Hợp nhất quý 3/2020 cho thấy, nợ xấu nội bảng cuối tháng 9 ở mức hơn 49.600 tỷ, tăng gần 12.000 tỷ so với hồi đầu năm, tương đương tăng 31%.
Chỉ có 2/16 ngân hàng có nợ xấu giảm là SeABank và NCB. Cụ thể, nợ xấu nội bảng cuối tháng 9 của NCB là 720 tỷ đồng, giảm 10 tỷ so với đầu năm; giúp tỷ lệ nợ xấu (trên tổng dư nợ cho vay) giảm từ 1,93% xuống còn 1,8%. Còn tại SeABank, nợ xấu cuối tháng 9 là 2.184 tỷ đồng, giảm 96 tỷ so với đầu năm; đưa tỷ lệ nợ xấu giảm từ 2,31% xuống mức 2,23%.
Trong khi đó, 14 ngân hàng còn lại đều có nợ xấu tăng, với nhiều nhà băng tăng hơn 50% trong 9 tháng. Các ngân hàng lớn như Vietcombank, Sacombank, MBBank, VPBank, ACB đều có nợ xấu tăng.
Nợ xấu nội bảng của ACB tại ngày 30/9/2020 là 2.480 tỷ đồng, tăng tới 71% so với đầu năm, trong đó nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) tăng gấp 3,5 lần lên 830 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng theo đó cũng tăng từ 0,54% hồi đầu năm lên 0,84%.
Nợ xấu của Vietcombank trong 9 tháng cũng tăng hơn 2.000 tỷ đồng, tương đương tăng 36% lên 7.885 tỷ. Trong đó nợ nhóm 3 và nhóm 4 tăng mạnh 4,2 lần và 2,7 lần. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng của ngân hàng từ mức 0,79% cuối năm 2019 tăng lên 1,01%.
Hay tại Sacombank, nợ xấu nội bảng tăng 19% lên 6.837 tỷ đồng. Trong khi đó, ngân hàng vẫn còn hàng chục nghìn tỷ đồng nợ xấu tại VAMC.
Video đang HOT
Tại VPBank hợp nhất (bao gồm cả công ty con), nợ xấu nội bảng cuối tháng 9 ở mức 10.147 tỷ đồng, tăng 15,3% so với đầu năm. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 3,42% lên 3,65%. Trong đó, nợ xấu của ngân hàng mẹ VPBank là 5.690 tỷ đồng, chiếm 2,71% trong tổng dư nợ cho vay, tăng nhẹ so với mức 2,69% hồi đầu năm. Nếu tính trên tổng dư nợ tín dụng (bao gồm trái phiếu doanh nghiệp), tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng riêng lẻ VPBank chỉ khoảng 2,1%.
Nợ xấu MBBank hợp nhất cũng tăng hơn 1.100 tỷ đồng lên 4.036 tỷ; khiến tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay tăng từ 1,16% lên 1,5%.
Nhiều ngân hàng nhỏ, quy mô tầm trung cũng có nợ xấu tăng mạnh. Trong đó trường hợp đặc biệt là Kienlongbank với nợ xấu tăng gấp 6,5 lần so với đầu năm lên 2.241 tỷ đồng. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng từ 1,02% lên 6,63%. Nguyên nhân là đầu năm 2020 ngân hàng phải ghi nhận gần 1.900 tỷ đồng dư nợ của một nhóm khách hàng được phân loại nợ nhóm 5 theo quyết định của NHNN. Các khoản vay này được đảm bảo bằng 176 triệu cổ phiếu STB và ngân hàng đang cố gắng bán được số cổ phiếu này để đưa tỷ lệ nợ xấu quay trở lại mức thấp.
Một ngân hàng nhỏ khác có nợ xấu cũng tăng mạnh là VietBank, tăng 61% lên 867 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng từ 1,32% lên 2,03%.
Hay tại TPBank, nợ xấu tăng 59% lên 1.971 tỷ đồng, chiếm 1,79% tổng dư nợ cho vay. Nợ xấu MSB tăng 31% lên 1.703 tỷ đồng, chiếm 2,32% tổng dư nợ cho vay.
Mặc dù nợ xấu có xu hướng tăng song đa số nhà băng vẫn đang kiểm soát tốt theo quy định. Theo NHNN, tính đến hết tháng 8/2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống ngân hàng tiếp tục được duy trì ở mức dưới 2%.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, áp lực với các ngân hàng trong thời gian tới rất lớn khi Thông tư 01 quy định về cơ cấu thời hạn trả nợ sớm muộn cũng đến lúc phải hết hiệu lực. TS. Phan Minh Ngọc, chuyên gia tài chính – ngân hàng cho rằng “Thông tư 01 dù có được sửa đổi thêm một hoặc vài lần nữa thì chắc chắn sẽ phải đến lúc không thể, không còn lý do để sửa đổi nó, để nó hết hiệu lực. Lúc đó, nợ xấu sẽ buộc phải nổi lên với quy mô cao hơn nhiều so với con số “đẹp” báo cáo trước đó. Các ngân hàng lúc này sẽ phải đối mặt với khối nợ xấu đồ sộ”.
Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có thể lên đến 3% cuối năm 2020 và 4% trong năm 2021.
Trong khi vừa phải chuẩn bị đương đầu mới khối nợ xấu mới có thể bùng lên trong tương lai, các ngân hàng cũng đang phải chật vật với việc phát mãi, bán đấu giá tài sản đảm bảo, ….để thu hồi nợ, xử lý nợ xấu cũ. Hàng loạt đợt rao bán đấu giá tài sản vẫn rơi vào tình trạng ế ẩm dù tài sản là bất động sản có vị trí đặc địa và nhà băng thì liên tục phải hạ giá khởi điểm. Bên cạnh đó, những vướng mắc liên quan đến công tác phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương vẫn hiện hữu, khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu giữ tài sản đảm bảo.
Đề xuất nghiên cứu luật hóa xử lý nợ xấu
Diễn đàn Toàn cảnh ngân hàng 2020 diễn ra cuối tháng 9/2020 đã đưa ra một bức trong toàn cảnh về công tác xử lý nợ xấu. Theo đó công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã đạt được kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên cho đến nay việc xử lý nợ xấu vẫn chưa có luật để điều chỉnh... Ngân hàng nhà nước đang xem xét, nghiên cứu việc luật hóa xử lý nợ xấu.
Ảnh minh họa
Dấu ấn rõ nét...
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) Nguyễn Kim Anh, xác định việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu (XLNX) là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của ngành ngân hàng trong suốt giai đoạn 2016-2020, NHNN cũng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW và các cơ quan có liên quan rà soát để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập, xung đột pháp lý giữa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) ngành ngân hàng với hệ thống các văn bản QPPL khác, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn có liên quan, cụ thể hóa các giải pháp nêu tại Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm XLNX của các TCTD (NQ 42) và Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (QĐ 1058), bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.
"Sau một thời gian triển khai trên thực tế, có thể khẳng định các giải pháp đồng bộ tại NQ 42 và QĐ 1058 đã tạo ra những dấu ấn rõ nét và chuyển biến tích cực trong công tác XLNX và cơ cấu lại các TCTD, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Quốc hội và Chính phủ, tạo niềm tin đối với hệ thống các TCTD nói riêng và của cả xã hội nói chung..." - Phó Thống đốc đánh giá.
Đến nay, về cơ bản, sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD được giữ vững, các TCTD bảo đảm các tỷ lệ, giới hạn an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật; Các TCTD đã tập trung xây dựng, tích cực triển khai phương án CCL gắn với XLNX giai đoạn 2016-2020 để phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra; Chất lượng tín dụng của các TCTD được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát dưới mức 2%; Quy mô, năng lực tài chính, năng lực quản trị, tính minh bạch trong hoạt động của các TCTD được nâng cao, mở rộng, phù hợp với thông lệ quốc tế; Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát, xử lý..., góp phần ổn định, bảo đảm an ninh tài chính - tiền tệ...
Giải quyết dứt điểm khó khăn, vướng mắc
Cùng với QĐ 1058, NQ 42 ra đời với nhiều giải pháp được đánh giá mang tính đột phá đã tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) các khoản nợ xấu tại TCTD và Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC).
Ông Đỗ Giang Nam - Phó Tổng Giám đốc VAMC - đánh giá, NQ 42 ra đời đã hỗ trợ TCTD XLNX đạt hiệu quả cao hơn. Kết quả XLNX xác định theo NQ 42 bằng hình thức khách hàng trả nợ tăng mạnh, phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã cải thiện. Khách hàng chủ động và hợp tác hơn trong việc trả nợ TCTD.
Tuy nhiên, theo đại diện VAMC, NQ 42 chỉ mang tính chất thí điểm, có hiệu lực 5 năm kể từ ngày 15/08/2017. Do đó, sau thời điểm NQ 42 hết hiệu lực, nếu không có văn bản thay thế thì có thể làm quá trình xử lý TSBĐ bị kéo dài, các nhà đầu tư mua, bán nợ xấu nghi ngại về khả năng xử lý các khoản nợ đã mua để thu hồi vốn.
Bên cạnh đó, sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 trong các tháng đầu năm 2020 sẽ ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến an toàn hoạt động ngân hàng cũng như kết quả CCL gắn với XLNX toàn ngành trong giai đoạn 2016-2020.
Để hỗ trợ người dân, DN bị ảnh hưởng bởi Covid-19, ngành ngân hàng đã có nhiều giải pháp hiệu quả, đặc biệt là các giải pháp CCL thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để vượt qua khó khăn theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN. Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của dịch bệnh dẫn đến việc DN gặp khó trong việc trả nợ ngân hàng nên nợ xấu trong thời gian tới sẽ tăng lên và ngành ngân hàng cần có giải pháp ứng phó với tình hình nợ xấu hậu Covid-19.
Chính vì vậy, để đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo NQ 42 và công tác cơ cấu lại theo QĐ1058 được triển khai có hiệu quả trên thực tế, đồng thời các TCTD tiếp tục phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo và đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, đặc biệt, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, Phó Thống đốc Nguyễn Kim Anh cho biết, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ban, ngành có liên quan đề xuất Chính phủ các giải pháp để giải quyết dứt điểm những khó khăn, vướng mắc về cơ chế cũng như trong thực tế áp dụng NQ 42.
Cùng với đó, NHNN cũng xem xét, nghiên cứu việc luật hóa XLNX nhằm quy định cụ thể về việc XLNX, xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC và tạo động lực cho các TCTD XLNX đạt hiệu quả; Cùng với đó, sẽ xây dựng Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2021-2025, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính và quản trị điều hành của các TCTD, hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế.
Thận trọng với nợ được cơ cấu lại Lượng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 được cơ cấu lại tại các ngân hàng rất lớn. Có ý kiến lo ngại cho rằng, nếu sau này Thông tư 01/2020/TT-NHNN hết hiệu lực mà doanh nghiệp vẫn không thể trả được nợ, nợ xấu của các ngân hàng sẽ tăng mạnh. Đầu năm nay, trước tác động của dịch Covid-19, Ngân...