Nợ xấu có thể không quá lớn
Ngành ngân hàng được cho là sẽ chịu tác động gián tiếp của dịch Covid-19, trong đó đáng lo ngại nhất là nguy cơ gia tăng nợ xấu. Nhưng theo TS. Nguyễn Đức Độ (ảnh), Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính ( Học viện Tài chính), các ngân hàng có thể hạn chế tối đa tình trạng này nếu chủ động tìm giải pháp, tính toán hợp lý các phương án phù hợp với chiến lược kinh doanh cũng như khả năng về nguồn lực và lợi nhuận.
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch viêm đường hô hấp cấp do dịch COVID-19.
Theo đó, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay đối với các khoản nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng thuộc một trong các trường hợp sau: Khoản nợ chưa chuyển nợ quá hạn mà khách hàng được đánh giá không có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng đã ký do chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 bao gồm cả các khoản nợ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Khoản nợ đã chuyển nợ quá hạn trong khoảng thời gian từ ngày 23/01/2020 đến ngày Thông tư được ký ban hành do chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Tổng thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định trên không vượt quá thời gian cấp tín dụng ban đầu theo hợp đồng đã ký.
Theo ông, tình hình dịch COVID-19 sẽ tác động như thế nào đến nợ xấu của các ngân hàng?
Về lý thuyết, tình hình dịch bệnh hiện này sẽ gây khó khăn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế, có thể nợ xấu sẽ tăng lên. Tuy nhiên, mức tăng như thế nào còn phụ thuộc vào việc dịch bệnh kéo dài trong thời gian bao lâu. Nếu kéo dài 1-2 tháng nữa thì các ngân hàng có thể phục hồi nhanh chóng, nhưng nếu kéo dài 1-2 quý nữa thì sẽ gây tác động không tốt. Ngoài ra, nợ xấu tăng lên hay không còn phụ thuộc vào mức vay nợ của các doanh nghiệp. Hiện nay, các ngành kinh doanh chịu ảnh hưởng lớn từ dịch COVID-19 là du lịch, nông nghiệp, xuất nhập khẩu… Dư nợ tín dụng của doanh nghiệp các ngành này không phải lớn nên có thể không gây ảnh hưởng quá lớn.
Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản đề nghị các tổ chức tín dụng chủ động nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, rà soát khách hàng đang vay vốn do dịch COVID-19 để cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay. Điều này có làm gia tăng lo ngại về nợ xấu hay không, thưa ông?
Trước hết phải nói đây là chỉ đạo rất kịp thời của ngành ngân hàng để hỗ trợ các đối tượng chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19. Tuy hiên, đây là chỉ đạo mang tính chất khuyến khích, không phải bắt buộc nên các ngân hàng có thể chủ động, tùy vào tình hình kinh doanh mà đưa ra những phương án hỗ trợ hợp lý. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng phải kiểm soát các khoản nợ, đảm bảo chặt chẽ, an toàn, đúng đối tượng. Vì thế, các ngân hàng thực hiện đúng có thể hạn chế sự gia tăng của nợ xấu.
Nếu không chịu tác động từ dịch bệnh, ông đánh giá như thế nào về tình hình nợ xấu trong năm 2020 của các ngân hàng?
Năm 2019, khối lượng nợ xấu của hệ thống tín dụng đã giảm xuống, bởi ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều giải pháp từ trước đến nay để công cuộc xử lý nợ xấu đạt hiệu quả. Tuy nhiên, trong năm 2020, không chỉ ảnh hưởng từ dịch bệnh, mà ngành ngân hàng còn chịu tác động do nền kinh tế thế giới cũng đang tăng trưởng chậm lại, nền kinh tế đang điều chỉnh theo chu kỳ, có một số ngành sau một giai đoạn tăng trưởng rất cao đã chững lại, hàng tồn kho nhiều nên doanh nghiệp điều chỉnh sản xuất; bất động sản chững lại khiến tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng chững lại… Vì thế, triển vọng ngành ngân hàng cũng không sáng sủa bằng năm 2019, nên khi có bệnh dịch bùng phát thì có tác động tiêu cực hơn, nợ xấu đáng lo ngại hơn. Do vậy, theo tôi, có khả năng nợ xấu năm nay sẽ tăng hơn so với năm trước, còn mức tăng nhiều hay ít phụ thuộc vào tình hình kinh tế trong và ngoài nước cũng như việc đưa ra chiến lược hoạt động của ngành ngân hàng nói chung, các tổ chức tín dụng nói riêng.
Tại Vietcombank, mặc dù nợ xấu giảm mạnh về còn hơn 5.700 tỷ đồng, nhưng số dư dự phòng rủi ro của ngân hàng này vẫn tăng thêm 123 tỷ đồng lên trên 10.400 tỷ đồng. Ảnh: ST.
Video đang HOT
Như ông nói thì nợ xấu năm nay có khả năng tăng lên, vậy các ngân hàng phải có những giải pháp gì để hạn chế tối đa tình hình này?
Thời gian qua, các giải pháp cũng như pháp luật về xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng cũng đã cơ bản hoàn thiện và phát huy hiệu quả tích cực. Do đó, trong năm nay, chúng ta vẫn chưa có một giải pháp nào mang tính đột phá hơn cho vấn đề này. Những năm trước, các cơ quan chức năng và chuyên gia có nhắc nhiều đến thị trường mua bán nợ xấu, nhưng đến nay do vướng các cơ sở pháp lý nên vẫn chưa được thực hiện. Vì vậy, việc xử lý nợ xấu vẫn đang là các ngân hàng vẫn đang tự xử lý khối nợ xấu của mình, dựa trên cơ sở của các văn bản pháp lý liên quan, trong đó là Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Xin cảm ơn ông!
Chuyên gia tài chính – ngân hàng TS. Cấn Văn Lực: Nợ xấu năm nay không bị đẩy lên ngay
Dịch bệnh COVID-19 có thể khiến cầu tín dụng giảm do nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, hộ gia đình thấp hơn, đặc biệt là trong quý I và quý II. Đồng thời, dịch bệnh này cũng tiềm ẩn nguy cơ làm tăng nợ xấu, khi hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp gặp khó khăn do tác động tiêu cực từ dịch bệnh. Tuy nhiên, quy mô dự tính tác động không quá lớn và chưa cần xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm. Hơn nữa, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho phép nếu hộ kinh doanh hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn sẽ không đưa vào nợ xấu trong năm nay mà đưa vào nợ tái cơ cấu. Vì thế, rõ ràng đây là tiềm ẩn nợ xấu về lâu dài, không phải đẩy nợ xấu năm nay lên ngay lập tức.
Chuyên gia tài chính – ngân hàng TS. Nguyễn Trí Hiếu: Thách thức nợ xấu vẫn rất lớn
Năm 2019, các ngân hàng trong năm 2019 đều có lãi lớn, nên năm 2020 tiếp tục được dự báo lạc quan về triển vọng lợi nhuận ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại cũng đã tiếp tục cơ cấu lại hệ thống, đưa hoạt động ngân hàng lành mạnh hơn, minh bạch hơn. Thách thức nợ xấu vẫn rất lớn nhưng nhiều ngân hàng nợ xấu đã giảm và đã có định hướng giải quyết vấn đề này rõ ràng hơn, cũng như nhiều ngân hàng đã quyết tâm cao hơn khi đưa ra biện pháp mạnh tay xử lý tình trạng này. Tuy nhiên, chúng ta không thể chủ quan nhất là trước tình hình dịch bệnh sẽ tác động đến nợ xấu. Xu hướng nợ xấu quay trở lại trong năm 2020 là có thể, đặc biệt, dư nợ cho vay bất động sản hiện vẫn ở mức cao.
Bình Nam (thực hiện)
Theo haiquanonline.com.vn
Ngân hàng đương đầu với dịch Covid-19: Nỗi lo nợ xấu gia tăng
Trong năm 2019, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã giảm hơn so với năm 2018. Đây là tiền đề đáng mừng để ngành ngân hàng "thênh thang" bước vào năm 2020. Tuy nhiên, với tình hình dich bệnh phức tạp cũng như sự giảm tốc của kinh tế toàn cầu, nỗi lo nợ xấu gia tăng lại trở về với ngành ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu năm 2019 của nhiều ngân hàng giảm mạnh là tín hiệu đáng mừng để đương đầu với khó khăn. Ảnh: ST.
Nợ xấu đã giảm
Báo cáo tài chính năm 2019 của các ngân hàng đã ghi nhận thêm nhiều thành viên gia nhập "câu lạc bộ" lợi nhuận trên 10.000 tỷ đồng. Đáng chú ý là tỷ lệ nợ xấu/cho vay của phần lớn các ngân hàng đang có xu hướng giảm. Theo khảo sát tại 22 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính năm 2019, tính đến cuối năm 2019, tổng nợ xấu của 22 ngân hàng là trên 79,78 nghìn tỷ đồng, giảm nhẹ so với mức gần 80,3 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2018. Tỷ lệ nợ xấu/cho vay khách hàng của nhóm theo đó đã giảm xuống còn 1,47% từ mức 1,72% hồi đầu năm. Có tới 17/22 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm.
Trong đó, ACB, BacABank và Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống chưa tới 1% và đều cải thiện chất lượng nợ. Cụ thể, nợ xấu của ACB là gần 1.450 tỷ đồng, giảm 13% so với năm 2018, trong khi tín dụng của ngân hàng này tăng tới 16,8%, giúp đưa tỷ lệ nợ xấu giảm từ 0,73% xuống 0,54% - mức thấp nhất hệ thống. Theo sau là BacABank với tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,68% và Vietcombank 0,78%. Ngoài ra, MSB dẫn đầu về đà giảm tỷ lệ nợ xấu trong năm 2019, từ 3,01% xuống 2,04%. Giá trị nợ xấu giảm 11% xuống 1.300 tỷ đồng trong khi dư nợ cho vay vẫn tăng 31% lên 63.594 tỷ đồng. Riêng nợ có khả năng mất vốn giảm 21% xuống 981 tỷ đồng.
Ngân hàng xử lý được nhiều nợ xấu trong năm qua có thể kể đến là VietinBank khi giá trị nợ xấu của ngân hàng này giảm mạnh từ 13.691 tỷ đồng xuống còn 10.813 tỷ đồng, trong đó nợ nhóm 5 giảm 21% từ 9.470 tỷ đồng xuống còn 7.204 tỷ đồng; tỷ lệ nợ xấu vì thế cũng giảm từ mức 1,58% năm 2018 về còn 1,16% năm 2019.
Mặc dù đã xử lý được số lượng nhiều, nhưng tính riêng 3 ngân hàng lớn nhất Việt Nam là Vietcombank, VietinBank, BIDV, giá trị nợ xấu đã chiếm tới gần 44% nợ xấu toàn hệ thống, khoảng 36.000 tỷ đồng.
Trong bức tranh trái ngược lại, hệ thống vẫn còn một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao, thậm chí là tăng lên, vượt mức 3% theo quy định. Trong đó, VPBank tuy giảm nhẹ tỷ lệ nợ xấu từ 3,5% của năm 2018 xuống mức 3,42% năm 2019 nhưng lại vượt mức 3% mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra. Ngân hàng này cho biết đã giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng mẹ bao gồm cả dư nợ tại Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) từ 4,01% cuối năm 2018 xuống còn 2,18% và hoàn tất xử lý trái phiếu đặc biệt. Ngoài ra, một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng như LienVietPostBank với mức tăng gần 21% về giá trị, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng từ mức 1,41% năm 2018 lên 1,44% năm 2019. TPBank cũng tăng giá trị nợ xấu 43%, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1,12% lên 1,29%...
Nguồn lực được cải thiện
Điểm đáng mừng khi nói về vấn đề nợ xấu ngân hàng trong thời gian qua là nguồn lực để xử lý nợ xấu đã được cải thiện đáng kể, khiến "cục máu đông" nợ xấu đang dần tan. Lợi nhuận tăng trưởng mạnh trong năm qua cũng giúp các ngân hàng có thêm nguồn lực để xử lý nợ xấu. Hiện Vietcombank đang giữ vị trí nhất bảng khi lợi nhuận lên tới 23.155 tỷ đồng, tăng 26,7% so với năm trước và vượt 13% kế hoạch năm. Tiếp sau là Agribank đạt 12.700 tỷ đồng, BIDV đạt 10.768 tỷ đồng, Techcombank đạt hơn 12.800 tỷ đồng...
Bên cạnh lợi nhuận, các ngân hàng cũng đã tăng thêm nguồn lực đối ứng nợ xấu. Theo quy định, các ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu. Vì thế, trong năm qua, khá nhiều ngân hàng đã mua lại nợ xấu đã bán cho VAMC để tự xử lý, trong đó bao gồm cả việc xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro tín dụng. Do vậy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLC - được tính bằng số dư dự phòng rủi ro của các khoản nợ xấu/nợ xấu) tại nhiều ngân hàng đã tăng mạnh so với năm trước.
Tiêu biểu như tại Vietcombank, mặc dù nợ xấu giảm mạnh về còn hơn 5.700 tỷ đồng, nhưng số dư dự phòng rủi ro của ngân hàng này vẫn tăng thêm 123 tỷ đồng lên trên 10.400 tỷ đồng, qua đó nâng tỷ lệ bao nợ xấu tăng lên mức cao nhất trong hệ thống là 182% từ mức 165,4% hồi đầu năm 2019. Một số ngân hàng khác cũng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu năm 2019 tăng lên trên ngưỡng 100% như VietinBank tăng từ 94,9% lên 119,7%, MB với 110,5%, BacABank với 131,45%... Tuy vậy, vẫn còn một số ngân hàng có tỷ lệ này ở mức khá thấp như Saigonbank là 40,9%, SeABank là 49,5%, VPBank là 46,4%...
Theo các chuyên gia, tỷ lệ bao phủ nợ xấu ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng nhưng lại là nguồn lực cần thiết để xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, với việc ngân hàng tăng mạnh về lợi nhuận như trên thì việc tăng tỷ lệ bao phủ này là điều dễ hiểu.
Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay năm 2019 và 2018 của một số ngân hàng. Biểu đồ: H.Dịu.
Nợ xấu có ngại COVID-19?
Theo báo cáo nghiên cứu của các chuyên gia Công ty Chứng khoán SSI, ngành ngân hàng sẽ chịu tác động tiêu cực trong ngắn hạn từ dịch COVID-19 đang lan rộng toàn thế giới. Vì thế, ngoài giảm tốc tộ tăng trưởng tín dụng cũng đặt ra lo ngại về việc gia tăng nguy cơ nợ xấu. Các ngân hàng đánh giá, những khách hàng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch COVID-19 là các doanh nghiệp trong các lĩnh vực vận tải, kho bãi; lưu trú; du lịch, nhà hàng - ăn uống... cùng các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên liệu nhập khẩu chính từ Trung Quốc... Những doanh nghiệp trong các lĩnh vực này chiếm lượng khá lớn trong số các khách hàng của các ngân hàng, do đó nguy cơ gia tăng nợ xấu là khó tránh khỏi.
Theo ước tính của VPBank, tổng số khách hàng của VPBank bị tác động trong đợt dịch bệnh COVID-19 có thể lên tới gần 1.000 doanh nghiệp và có thể gia tăng nếu tình hình diễn biến phức tạp hơn và kéo dài.
Ông Phạm Toàn Vượng, Phó Tổng giám đốc Agribank cho hay, Agribank chưa đánh giá được có bao nhiêu khách hàng bị thiệt hại và số lượng thiệt hại, song chắc chắn dịch bệnh sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền trả nợ của khách hàng với ngân hàng. Theo đó, việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, trong khi trong cơ cấu cho vay của Agribank, nông nghiệp chiếm tới 70%. Điều này cũng có thể tác động làm gia tăng nguy cơ nợ xấu.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, mặc dù tiềm ẩn nợ xấu là có thật nhưng nếu các ngân hàng chủ động vào cuộc thì có thể giải quyết được những khó khăn này. Vì thế, NHNN mới đây đã ban hành văn bản đề nghị các tổ chức tín dụng chủ động nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, rà soát, đánh giá mức độ thiệt hại, ảnh hưởng của khách hàng đang vay vốn do dịch COVID-19 để thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, tạm thời giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng đối với các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và có dư nợ gốc và/hoặc lãi đến kỳ hạn trả nợ trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2020 và đến ngày 31/3/2020, cho đến khi NHNN ban hành thông tư hướng dẫn về vấn đề này.
Vì vậy, nhiều ngân hàng đã đồng loạt vào cuộc đưa ra hàng loạt giải pháp như tung ra các gói tín dụng ưu đãi, giảm lãi suất cho vay, cơ cấu thời hạn trả nợ song vẫn được giữ nguyên nhóm nợ, ưu đãi phí trả nợ trước hạn... cho khách hàng chịu ảnh hưởng. Với quyết định này, các ngân hàng cho biết có thể phải hy sinh một phần lợi nhuận nhưng đây là một hành động cần thiết để hỗ trợ khách hàng, bởi khi khách hàng khó khăn thì chất lượng tín dụng có thể bị ảnh hưởng, nợ xấu vì thế có thể tăng lên thì sẽ quay trở lại tác động trực tiếp đến chi phí và lợi nhuận ngân hàng.
Hơn nữa, để phòng ngừa rủi ro khi các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại nợ trong đợt dịch bệnh này, văn bản của NHNN cũng đã kèm theo yêu cầu các tổ chức tín dụng phải đánh giá mức độ thiệt hại, ảnh hưởng, khả năng tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng cũng phải chủ động thực hiện miễn giảm lãi vay, cơ cấu nợ theo một cách chặt chẽ, an toàn, đúng đối tượng; phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng cơ chế để phản ánh sai lệch chất lượng tín dụng.
Hương Dịu
Theo Báo Hải Quan
Nhân sự cấp cao tại Eximbank lại biến động trước thềm Đại hội đồng cổ đông bất thường Hội đồng quản trị Eximbank bất ngờ bổ nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị và Kế toán trưởng trước khi diễn ra Đại hội đồng cổ đông bất thường. Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank, HoSE: EIB) vừa quyết định bổ nhiệm vị trí Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị và Kế toán...