Những ví dụ cho thấy tiến hóa đôi khi cũng ‘hà tiện’, tận dụng cùng một đặc điểm cho hai loài khác nhau
Đủ tốt rồi thì sao cần phải thay đổi nữa?
Thỉnh thoảng, chọn lọc tự nhiên lại kém “ sáng tạo”, sử dụng những chiêu trò cũ đã từng xuất hiện trên chặng đường tiến hóa. Quá trình này có tên tiến hóa hội tụ – convergent evolution, nhưng cũng chẳng có gì xấu khi mà những đặc điểm cơ thể, các cấu trúc sinh học đó đủ tốt để được Mẹ Thiên Nhiên vận dụng lại.
Trong tiến hóa, việc đột biến diễn ra ngẫu nhiên nhưng gần như chắc chắn việc chọn lọc tự nhiên không tuân theo quy luật đó. Mỗi một yếu tố mới xuất hiện ở một loài sẽ đi kèm với một loạt những sai lầm tiến hóa của tổ tiên chúng. Việc loài đó có sống sót nổi cuộc sống khắc nghiệt không chính là bài đánh giá xem việc đột biến có lợi hay hại; lợi thì sống mà hại thì cả dòng giống ra đi vĩnh viễn.
Có khi những yếu tố đột biến diễn ra trên hai loài khác nhau về cả không gian và thời gian sống; điều này thường diễn ra khi hai loài bỗng gặp chung hoàn cảnh sống và phải thay đổi để mà thích nghi. Khi điều này xảy ra, lịch sử sinh học sẽ chứng kiến sự hiện diện của hai loài khác nhau nhiều phần nhưng lại giống nhau vài phần.
Dưới đây là những ví dụ cho thấy điều đó:
Cá heo và loài bò sát nước Ichthyosaur
Ichthyosaur
Có hai loài động vật sống dưới nước trông rất đỗi giống nhau là cá heo hiện đại và Ichthyosaur: chúng chính là ví dụ điển hình cho thấy quá trình tiến hóa đưa ra cùng một giải pháp giải quyết khó khăn cuộc sống trên hai loài khác nhau, với một bên là thú có vú còn một bên là bò sát. Chúng đều có các đặc điểm như sinh con, có máu nóng và thậm chí cách thức đánh lừa thiên địch của hai loài cũng giống nhau.
Cá heo hiện đại.
Cá mập và cá heo cũng sẻ chia vài đặc tính của tiến hóa hội tụ, ví dụ như hình tháng thuôn của thân cùng vây hình tam giác.
Đà điểu đầu mào và Corythoraptor
Năm 2017, các nhà cổ sinh vật học phát hiện ra hóa thạch của một con khủng long kỳ lạ tại miền Nam Trung Quốc, họ đặt tên nó là Corythoraptor jacobsi. Sinh vật tồn tại ở cuối Kỷ Phấn trắng có vẻ ngoài đặc biệt giống loài chim không biết bay sống tại Úc.
Chung có hình dáng cơ thể giống nhau, đều có mào trên đầu – thứ được cho là trợ giúp chúng kiếm bạn tình trong mùa giao phối.
Động vật họ Chó và hổ Tasmania
Hổ Tasmania.
Hổ Tasmania trông giống chó hiện đại một cách đáng ngạc nhiên, trong khi chúng là một loài săn mồi có túi (để con trong túi ngực tương tự như chuột túi và gấu koala), còn động vật họ chó bao gồm những loài thú săn mồi như sói, cáo và các giống chó được thuần hóa.
Đáng ngạc nhiên thay, tổ tiên chung của hai loài trên dạo chơi trên mặt đất từ 160 triệu năm trước, sánh bước cùng khủng long. Dù khoảng cách xa đến vậy, cả hổ Tasmania và họ Chó đều có khung sọ và hình dáng cơ thể na ná nhau.
Một báo cáo khoa học xuất bản năm 2017 chỉ ra rằng vẻ ngoài của chúng “ được cho là ví dụ đáng chú ý nhất của tiến hóa hội tụ trên động vật có vú“.
Cá Piranha và Piranhamesodon
Hóa thạch gần hoàn thiện của Piranhamesodon pinnatomus.
Hình minh hoạc Piranhamesodon pinnatomus.
Cuối kỷ Jurra (khoảng 150 triệu năm trước), một loài cá rất giống cá Piranha hiện đại xưng bá vùng biển mà ngày nay là miền Nam nước Đức. Có tên Piranhamesodon pinnatomus, chúng là loài cá ăn thịt vây xương cổ xưa nhất, họ hàng hiện đại của chúng bao gồm cá hồi, cá tuyết, … nhưng lại không có cá Piranha.
P. pinnatomus có hàm răng giống cá Piranha, chúng dùng hàm sắc nhọn chủ yếu để ăn vây của các con cá khác – một bước đi rất khôn ngoan. Ăn thịt các con cá khác, chúng sẽ ngay lập tức tiêu diệt con mồi, nhưng nếu tập trung ăn vây – thứ có thể mọc lại được, Piranhamesodon pinnatomus sẽ có nguồn thức ăn cho cả đời.
Giống linh trưởng cỡ nhỏ
Các bằng chứng khảo cổ cho thấy con người cũng chịu ảnh hưởng của tiến hóa hội tụ. Homo sapien là loài linh trưởng thống trị Trái Đất, nhưng thuở xưa, bề mặt Trái Đất rải rác những giống linh trưởng khác, bao gồm Neanderthal, Denosovan, Homo erectus, Homo naledi và nhiều hơn nữa.
Năm 2004, các nhà khảo cổ làm việc tại vùng đảo Flores phát hiện ra dấu tích của một giống người nhỏ, chỉ cao khoảng hơn 100 centimet, được đặt tên là Homo floresiensis. Năm ngoái, khoa học lại phát hiện ra một giống người nhỏ nữa ở vùng đảo Philippines; họ đặt tên cho những sinh vật này là Homo luzonensis.
Homo floresiensis
Hai giống người “tí hon” này sinh sống trong cùng khoảng thời gian – khoảng 50.000 năm trước, nhưng họ cách xa về mặt địa lý. Vẻ ngoài giống nhau của Homo floresiensis và Homo luzonensis được cho là bằng chứng của quá trình tiến hóa có tên “lùn hóa tại đảo”, xuất hiện khi kích cỡ một loài tiêu biến khi lượng tài nguyên hạn hẹp.
Dơi và Ambopteryx
Ambopteryx longibrachium
Những loài như dơi, sóc bay và thằn lằn bay pterosaur đều có cánh màng được căng ra bởi loại xương đặc biệt có tên styliform. Với việc phát hiện ra loài khủng long tí hon Ambopteryx longibrachium hồi năm ngoái, các nhà khoa học có bằng chứng cho thấy khủng long cũng ứng dụng chiến thuật tiến hóa hội tụ để thích nghi với môi trường.
Con khủng long “mỏ vịt”
Khi khoa học phát hiện ra loài khủng long chân thú (chân ba ngón và có xương rỗng) có tên Chilesaurus diegosuarezi, họ gọi nó là loài “thú mỏ vịt” của giới khủng long vì trên cơ thể nó là một loạt các nét đặc trưng của loài khác, y như con thú mỏ vịt mang đặc tính của nhiều loài trên một cơ thể.
C. diegosuarezi là ví dụ điển hình của tiến hóa hội tụ, khi nó … hội tụ rất nhiều đặc điểm của các loài khác nhau; chúng có chi trước khỏe như Allosaurus, xương chậu giống khủng long hông chim (như Stegosaurus và Ceratopsian), rồi lại có răng, hộp sọ và đặc điểm khuôn mặt giống nhiều loài khủng long khắc.
Nó quả thật là tạo vật kỳ lạ của tiến hóa, chẳng khác thú mỏ vịt của nước Úc.
Giải mã gene người Việt: Chúng ta là ai?
Tổ tiên các dân tộc Thái, Tày, Nùng... ngày nay có mối quan hệ với tổ tiên của người Kinh hoặc các tộc người khác ra sao? Người Việt có nguồn gốc từ đâu là câu hỏi không dễ trả lời.
Ảnh: IT
Thực hiện nghiên cứu gene để phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam, Viện Nghiên cứu hệ gene, thuộc Viện Hàn lâm KHCN đã thực hiện đề tài "Giải trình tự và xây dựng hoàn chỉnh hệ gene người Việt Nam đầu tiên".
GS.TS Nông Văn Hải, nguyên Viện trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã có nghiên cứu góp phần không nhỏ trả lời câu hỏi này.
Giải mã hệ gene đi tìm nguồn gốc
Nhiều năm nay, các nhà dân tộc học và khảo cổ học đã đưa ra một số giả thiết rằng cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngày nay, dù khác nhau nhưng từng có mối quan hệ gần gũi trong thời kỳ dựng nước và suốt chiều dài lịch sử. Nhưng ngoài các giả thuyết dân tộc học và khảo cổ học, liệu có cách lý giải nào khác? Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu gene người để chứng minh mối quan hệ, luồng di cư giữa các tộc người ở thời cổ đại, từ đó hé lộ dần bức tranh quan hệ giữa các dân tộc.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu như vậy còn hết sức mới mẻ và sơ khai, do giải mã gene các di cốt cổ được khai quật từ thời Đông Sơn và trước đó chưa nhiều, giải mã hệ gen ở người hiện đại cũng hầu như mới chỉ tập trung vào người Kinh nên chưa thể thấy hết được được tính đa dạng.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về đa dạng di truyền hệ gene người Việt Nam, khảo sát lấy mẫu ở 22 tộc người khác nhau của GS.TS Nông Văn Hải và cộng sự đã góp phần mang lại cơ sở dữ liệu quý giá đầu tiên để lý giải mối quan hệ giữa các dân tộc ngày nay và tại thời điểm khởi nguồn lịch sử Việt Nam. Những điều này đã được GS.TS Nông Văn Hải trình bày, giải đáp qua buổi tọa đàm "Đa dạng di truyền và nguồn gốc người Việt Nam".
Thực hiện nghiên cứu gene để phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam, Viện Nghiên cứu hệ gene, thuộc Viện Hàn lâm KHCN đã thực hiện đề tài "Giải trình tự và xây dựng hoàn chỉnh hệ gene người Việt Nam đầu tiên" làm "trình tự tham chiếu" và "bước đầu phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam", và giải mã 600 hệ gene ty thể hoàn chỉnh từ các cá thể của 17 dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, tại tọa đàm, GS.TS Nông Văn Hải, Nguyên Viện trưởng Viện NC Hệ gene cho biết, "đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp", và ngành gene hay các ngành khác cũng "chỉ như thầy bói xem voi".
Không chỉ người Việt có nhu cầu tìm nguồn gốc, ngay gần nước ta, Thái Lan, Trung Quốc cũng đang tìm nguồn gốc chính mình... Nhiều nước đã xây dựng bộ dữ liệu gene rất đồ sộ, thậm chí có "câu lạc bộ các nước giải trình tự 100.000 đến 1 triệu bộ gene". Còn với số lượng mẫu ít như Việt Nam hiện có, khó có thể khẳng định được điều gì về nguồn gốc ngay tại thời điểm hiện nay. "Tất cả các lĩnh vực, lịch sử, ngôn ngữ, địa lý, các ngành khoa học nói chung... cùng nỗ lực mới dần dần làm le lói câu trả lời cho câu hỏi chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến", GS.TS Nông Văn Hải cho hay.
Con người có chung nguồn gốc
Việc phân tích hệ gene ở người hiện tại có thể giúp khẳng định tính đa dạng di truyền của các tộc người hiện nay. Ví dụ có thể cho biết những đặc điểm chung giữa người Kinh, Tày, Thái... so với các tộc người cụ thể khác trong cùng một nhóm tộc người (phân loại theo ngữ hệ) của mình hoặc các dân tộc thuộc ngữ hệ khác.
Nghiên cứu của GS.TS Nông Văn Hải cùng cộng sự đã chỉ ra rằng giữa các dân tộc có lịch sử di truyền, nguồn gốc chung nào đó và có sự giao thoa về mặt di truyền chứ không có một dân tộc "thuần chủng". Nghĩa là, các dân tộc ngày nay đều có chung nguồn gốc, chỉ có điều là dân tộc đó "tách" ra sớm hay muộn chứ không có chuyện dân tộc đó cách xa hay gần so với các dân tộc khác.
Để thực hiện đề tài, GS Nông Văn Hải đã hợp tác với giáo sư người Mỹ Mark Stoneking, Viện Max Planck về Nhân chủng học tiến hóa, CHLB Đức, người dày dạn kinh nghiệm hợp tác phân tích hệ gene của nhiều tộc người, từ Thái Lan, Philipines đến các dân tộc ở châu Phi. Nhóm nghiên cứu khảo sát lấy mẫu gene các tộc người trên quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam - hơn 600 người thuộc 22 dân tộc ở năm ngữ hệ chính ở Việt Nam và Đông Nam Á lục địa (gồm các ngữ hệ: Nam Á, Thái - Kadai, Hmông-Miền, Nam Đảo và Hán - Tạng), đồng thời phân tích cùng với dữ liệu hệ gene của nhóm cư dân hiện đại lân cận và các tập dữ liệu gene của người ở Đông Nam Á cổ đại đã được công bố trước đây trong cơ sở dữ liệu hệ gene quốc tế.
Nhưng trong trình tự hệ gene với hơn 3 tỉ "ký tự" của mỗi người, làm sao để xác định được sự giống và khác nhau giữa các tộc người theo cách hợp lý nhất? Nhóm phân tích dữ liệu đa hình nucleotide đơn - SNP (single nucleotide polymorphisms), trong đó tập trung đi sâu phân tích hệ gene sử dụng công nghệ mới gene CHIP (gồm khoảng 600.000 điểm thể hiện sự khác biệt về mặt di truyền giữa các cá thể). Đây cũng là những công nghệ mà các nhóm nghiên cứu đa dạng di truyền các tộc người trên thế giới đang sử dụng chủ yếu, bởi vì 99,9% trình tự hệ gene là hoàn toàn giống nhau giữa các cá thể, tộc người trong toàn bộ loài người, GS Nông Văn Hải cho biết.
Kết quả phân tích, được xuất bản trên tạp chí Molecular Biology and Evolution5 (Q1, IF~15, thứ 2 về sinh học tiến hóa) cho thấy "tính đa dạng tộc người phân theo ngữ hệ đã phản ánh các nguồn gốc khác nhau về đa dạng di truyền ở Việt Nam", nghĩa là trong 22 dân tộc được khảo sát, "dân tộc này cũng có chung các đặc điểm về gene của dân tộc khác trong cùng ngữ hệ hoặc khác ngữ hệ", GS Nông Văn Hải giải thích. Chẳng hạn, nhìn các bảng số liệu phân tích mức độ lai hỗn hợp (Admixture) có thể thấy rõ: các dải màu sắc khác nhau quy ước cho các tộc người hay ngữ hệ khác nhau cho thấy tình trạng "lai" giữa các dân tộc là phổ biến và hiển nhiên.
Loài chim từng tuyệt chủng hoàn toàn nay đã xuất hiện lại Một loài chim không biết bay đã tuyệt chủng 130.000 năm trước nhưng nay đã xuất hiện trở lại nhờ quá trình tiến hóa. Chuyện diễn ra trên đảo san hô Aldabra (Ấn Độ Dương), nơi một loài chim thuộc họ gà nước đã tuyệt chủng cách đây khoảng 136.000 năm. Loài chim này có phần lông cổ trắng, kích thước tương tự...