Những phi vụ tình báo nổi tiếng thế giới
Các hoạt động tình báo và điệp viên đã có từ thời đại Kinh thánh. Ngày hôm nay các chuyên gia tình báo tham gia vào hàng loạt hoạt động đa dạng, gồm cung cấp các báo cáo tình báo cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia, hoặc thu thập tình báo thông qua các phương pháp giám sát điện tử tinh vi cùng cách thức truyền thống như tình báo con người (HUMINT).
Sidney Reilly hay còn có biệt danh “Át chủ bài điệp viên” là một mật vụ hết sức nổi tiếng. Sinh ra với tên thật là Rosenblum tại Nga hồi thập niên 1870, sau khi bị Cảnh vệ Sa hoàng nhắm mục tiêu vì các hoạt động lật đổ, ông đã rời nước Nga. Ban đầu ông đến Brazil và sau đó định cư ở London. N.goại t.ình với vợ của một người Anh giàu có và sau cái c.hết bí ẩn của người đàn ông này, Sidney đã lấy người đàn bà đó và đổi tên mới là “Sidney George Reilly”.
Nhờ việc lấy tên mới và nhanh chóng lọt chân vào hàng ngũ quý tộc Anh đã tạo cho Reilly một lớp vỏ bọc hoàn hảo để chống Nga. Trước Thế chiến I, Sidney Reilly cùng các mật vụ khác đã tham gia vào hàng loạt hoạt động gián điệp. Sống cùng vợ ở St. Petersburg, Sidney Reilly đã đi khắp đế quốc Nga, làm gián điệp cho tình báo Anh.
Điệp viên huyền thoại Sidney Reilly.
Ông được cho là đã lấy được các kế hoạch phòng thủ của căn cứ hải quân Nga ở Port Arthur ở Mãn Châu và bán chúng cho người Nhật. Kết quả là, người Nhật đã tổ chức tấn công thành công trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1904. Trong Thế chiến I, Sidney Reilly hoạt động ngay trong lòng nước Đức, thậm chí ông còn tham gia một loạt các cuộc đàm phán với Bộ tổng tham mưu Đức trước sự chứng kiến của nhà vua Kaiser Wilhelm II.
Vào những năm cuối đời, Sidney Reilly tập trung chống lại nhà nước Liên Xô mới thành lập sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917 đã lật đổ chế độ Sa hoàng. Sau đó Sidney Reilly được cho là bị dụ bởi phản gián Liên Xô khi các điệp viên đóng giả thành những phần tử phản cách mạng lấy tên là “Sự thật, Reilly đột nhiên biến mất và có tin đồn là ông bị x.ử t.ử đâu đó trong năm 1925. Nghề nghiệp mà Reilly theo đuổi là minh chứng về cách tình báo hỗ trợ việc thực hiện những mục tiêu quốc gia.
Điệp viên kép Juan Pujol Garcia
Trong tất cả vai trò của một điệp viên tình báo thì chức năng của một điệp viên kép là có lẽ gây tranh cãi nhiều nhất. Một trong những điệp viên kép nổi tiếng là Juan Pujol Garcia. Lấy bí danh “Garbo” bởi người Anh hoặc “Alaric” bởi Đức Quốc xã (ĐQX), những chiến công đã giúp Juan Garcia được ĐQX tưởng thưởng Huy chương Thập tự sắt cũng như Thành viên của Huân chương đế chế Anh. Juan Pujol Garcia lớn lên trong thời kỳ lịch sử đầy biến động của đất nước mình.
Thập niên 1930, Tây Ban Nha trong tình trạng hỗn loạn khi chế độ quân chủ sụp đổ, sự hỗn độn của nền Cộng hòa Tây Ban Nha Đệ nhị, cùng sự suy thoái kinh tế thế giới. Năm 1936, Tây Ban Nha vướng vào nội chiến. Những người Cộng hòa đã chống lại quân đội Tây Ban Nha, dưới sự yểm trợ của phát xít Đức, Ý.
Điệp viên kép tài ba Juan Pujol Garcia.
Khi Thế chiến II nổ ra, Juan Garcia đã chọn Anh làm đất nước để ông muốn chiến đấu. Ban đầu chính phủ Anh khước từ lời đề nghị giúp đỡ, vì thế Garcia liền sang Đức. Ông đóng giả là một người ĐQX tận tụy khi cung cấp cho người Đức thông tin chi tiết về các hoạt động của người Anh, rồi tuyên bố rằng mình có thể giả thương gia để sang Anh. Người Đức liền tranh thủ Juan Garcia vì thông tin tình báo của ông rất xác thực. Song người Đức không hay rằng hầu hết các báo cáo của Garcia đều là bịa đặt và lấy từ những nguồn giả tạo.
Cục MI.5 cũng để mắt tới các hoạt động của Garcia và sử dụng ông truyền thông tin giả cho tình báo Đức đằng sau phòng tuyến địch. Những báo cáo tình báo của Garcia về Chiến dịch Torch, cuộc xâm lược vào Bắc Phi của liên minh Anh – Mỹ đã được kiểm chứng là xác thực bởi quân Đồng Minh. Vậy nhưng báo cáo của Garcia được tạo ra như thể nó bị trì hoãn hoặc quá muộn màng để hỗ trợ Đức chống lại thế lực xâm lược.
Song người Đức vẫn cho rằng các báo cáo của Juan Garcia là đáng tin cậy và hợp lệ. Tính xác thực và độ tin cậy trong các báo cáo của Garcia khiến ông trở thành kênh lý tưởng để phát tán tình báo giả cho Đức liên quan đến cuộc xâm lược của quân Đồng Minh vào Normandy. Chiến dịch Overlord (tên mã của cuộc xâm lược D-Day) được hỗ trợ bởi một kế hoạch quân sự đ.ánh lừa có tên là Chiến dịch Fortitude. Chiến dịch Fortitude khiến người Đức tin rằng giặc ngoại xâm sẽ đổ bộ lên Pas de Calais.
Quân Đồng Minh đã thiết lập các loại mồi nhử, căn cứ cũng như liên lạc vô tuyến nhằm hỗ trợ cho niềm tin của người Đức rằng Đồng Minh chắc chắn sẽ đổ bộ lên Pas de Calais. Ngay sau cuộc đổ bộ Normandy, các báo cáo liên tục của Garcia cho thấy rằng lực lượng ngoại xâm là một phần của kế hoạch đ.ánh lạc hướng nhằm trì hoãn sự phản công của quân Đức. Nếu bị Đức bắt được, chắc chắn Juan Garcia sẽ bị án t.ử h.ình bằng hình thức xử b.ắn hoặc xử giảo.
Video đang HOT
Hợp tác tình báo giữa Edwin Layton và Joseph Rochefort
Phần lớn các tài liệu nghiên cứu tình báo ngày nay tập trung vào hợp tác giữa các tổ chức, chẳng hạn như Hợp tác Anh – Anh trước và trong suốt Thế chiến II cùng với sự thành lập Liên minh Ngũ Nhãn (FVEY) năm 1946. Liên minh FVEY (Australia, Canada, New Zealand, Anh, và Mỹ) cùng hợp tác trên bình diện toàn cầu về Tình báo tín hiệu (SIGINT). Bên cạnh đó làm việc nhóm cũng phát huy hiệu quả cao. Một trong những minh họa tuyệt vời về hợp tác theo nhóm là Edwin Layton và Joseph Rochefort. Edwin Layton (sĩ quan tình báo) và Joseph Rochefort (sĩ quan hải quân kiêm nhà phân tích mật mã) đã gặp nhau lần đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1929 nhằm đào tạo ngôn ngữ nhập vai. Sau đó Layton làm Tùy viên hải quân Mỹ ở Nhật Bản trong thập niên 1930, còn Rochefort đắm mình trong cơ sở Sigint đang phát triển của Hải quân Mỹ, cụ thể là tập trung vào việc giải mã các liên lạc tiếng Nhật.
Sĩ quan hải quân kiêm nhà phân tích mật mã Joseph Rochefort.
Trong suốt thập niên 1930, nhiều nước như Đức, Ý, Nhật và Liên Xô tìm cách phá vỡ nguyên trạng. Tại Thái Bình Dương, Nhật Bản và Mỹ leo thang chạm trán. Layton được bổ nhiệm làm sĩ quan tình báo cho Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ chỉ 1 năm trước khi xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, trong khi đó Rochefort được chỉ định phụ trách văn phòng HYPO, tức là trạm Sigint của Hải quân Mỹ đặt ở Hawaii vào đầu năm 1941. Cả hai người tập trung vào việc đ.ánh giá và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu chống lại mối đe dọa từ Nhật Bản. Họ cũng kiểm soát thông tin tình báo được lưu trữ tại Bộ chỉ huy hải quân ở Washington, D.C.
Trong lúc giải mật các liên lạc quân sự Nhật Bản được cung cấp cho các lực lượng Mỹ trong khu vực, họ đã bị Đô đốc Richmond K. Turner (người đứng đầu bộ phận kế hoạch chiến tranh của Bộ chỉ huy Hải quân Mỹ) từ chối tiếp nhận các liên lạc ngoại giao quan trọng của Nhật Bản. Theo Layton thì những thông tin tình báo quan trọng sẽ cho phép Đô đốc Husband Kimmel (chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương) hiểu ý đồ của Nhật Bản.
Như Layton đã viết trong cuốn sách mang tiêu đề “Đô đốc Kimmel đã bị lừa”, vạch rõ chuyện đấu đá nội bộ trong việc lựa chọn thông tin và dữ liệu ngay trong cộng đồng tình báo. Sau thất bại của Trân Châu Cảng, Hạm đội Thái Bình Dương đã có chỉ huy mới: Đô đốc Chester Nimitz. Ông Nimitz đã giữ lại toàn bộ nhân viên cũ của Kimmel gồm cả Layton. Sở thích động não của Layton và trí nhớ phi thường của Rochefort đã giúp họ nhanh chóng xác định ra Midway (tên mã là “AF”) trong các liên lạc Nhật Bản, có thể là mục tiêu của trận đ.ánh tiếp theo của người Nhật. Song Bộ chỉ huy hải quân Mỹ vẫn khăng khăng cho rằng Hawaii mới là mục tiêu thực sự của người Nhật.
Khi Mỹ giải mật các liên lạc Nhật Bản thì mới rõ ký hiệu “AF” có nghĩa là sự cố chưng cất nước, từ đây kế hoạch tấn công sắp tới của người Nhật là Midway đã được xác thực. Kết quả là Layton và Rochefort đã giúp lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ (gồm 3 tàu USS Yorktown, USS Enterprise và USS Hornet) vào vị trí và tấn công các lực lượng Nhật đang tiến đến. Những nỗ lực của Layton và Rochefort là hết sức quan trọng nhằm thiết lập nền tảng cho hỗ trợ tình báo trong một chiến trường hoạt động phức tạp.
Công trình phân tích tình báo của Reginald Victor Jones
Có một nhân vật chủ chốt đảm nhiệm vai trò nhắm mục tiêu trong các hoạt động tình báo, đó là nhà vật lý người Anh, British physicist Reginald Victor Jones. Trước khi Thế chiến II nổ ra, Jones làm việc cho Bộ Không quân Anh và bắt tay vào việc cải thiện năng lực phòng không của Anh chống lại Không quân Đức. Ông đã chứng kiến sự ra đời của các công nghệ mới như radar, thiết bị liên lạc và vũ khí. Chiến lược không quân của ĐQX được tạo ra để khuất phục nước Anh. Độ chính xác của các cuộc n.ém b.om của quân Đức được yểm trợ bằng thứ công nghệ mới mà Chính phủ Anh chưa rõ. Ông Jones trở thành nhà khoa học đầu tiên được bổ nhiệm vào bộ phận tình báo của Bộ Không quân Anh nhằm mục đích hỗ trợ các vấn đề kỹ thuật.
Thông qua việc thu thập tình báo từ máy bay Đức b.ị b.ắn hạ, ông Jones quả quyết rằng người Đức đang sử dụng một hệ thống dẫn đường được biết đến với tên mã “Knickebein” dùng chùm sóng vô tuyến để chỉ đạo máy bay đến mục tiêu của chúng. Ông Jones cũng nhận dạng tần số vô tuyến mà Đức đang sử dụng và từ đó phát triển ra cách gây nhiễu các chùm tia vô tuyến đó, đồng thời đ.ánh lạc hướng oanh tạc cơ Đức.
Sau này, ông Jones tập trung vào nghiên cứu tình trạng phòng không của Đức. Những nỗ lực tình báo của ông đã hỗ trợ việc đ.ánh bom chiến lược của quân Đồng Minh cũng như yểm trợ cho cuộc xâm lược D-Day. Ông Jones từng phát biểu: “Sự tương quan bộ não là có liên quan, hệ thống tình báo giống như một mạng lưới trung lập rộng lớn, nơi thông tin được thu thập, lọc, sắp xếp và liên kết trước khi có thể áp dụng vào hành động”.
Nhà vật lý người Anh, ông Reginald Victor Jones (bên phải), chuyên gia tình báo về nhắm mục tiêu.
Reuven Shiloah, David Ben-Gurion và Mossad
Mossad (Cơ quan tình báo của Israel) được nhắc đến vì tác động của nó đối với thế giới tình báo. Được sáng lập bởi David Ben-Gurion vào năm 1949, giám đốc Mossad đầu tiên là ông Reuven Shiloah. Năm 1948, nhà nước Israel với sự phản đối mạnh mẽ từ các nước láng giềng Arab. Trong giai đoạn hỗn độn này, các tổ chức tình báo Israel bắt đầu nổi lên dưới sự quản lý của Mossad. Nói cách khác, Mossad là sự hợp nhất của các tổ chức tình báo quân sự nước ngoài và nội địa của Israel.
Một đặc điểm đáng lưu ý là các đặc vụ tình báo nước ngoài của Israel làm việc ở Châu Âu không sẵn lòng phục vụ các thủ lĩnh tình báo trong nước do sự khác biệt về quan điểm và văn hóa. Đầu thập niên 1950, chiến tranh Lạnh nóng lên và chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra, giới lãnh đạo Israel dưới thời Thủ tướng David Ben-Gurion lo ngại các nước Arab sẽ lợi dụng hai siêu cường Mỹ, Liên Xô đang tập trung vào chiến tranh Triều Tiên và sẽ tấn công Israel.
Trước tình hình thời cuộc, Thủ tướng David Ben-Gurion đã liên lạc với người bạn thân Reuven Shiloah (người đã có kinh nghiệm tình báo từ trước đó) đứng ra làm giám đốc Mossad. Ông Shiloah đã đứng ra mạnh tay xử lý các điệp viên Mossad ở nước ngoài để họ tập trung về một mối. Shiloah cũng triệt để cải tổ cấu trúc căn bản của Mossad bằng cách thống nhất cộng đồng tình báo Israel và thiết lập liên lạc quốc tế với các cộng đồng tình báo nước ngoài.
Liên minh tình báo chống Đức Quốc xã ở Afghanistan
Việc phát xít Đức tấn công Liên Xô đã đưa vấn đề thành lập một liên minh chống Hitler lên chương trình nghị sự.
Sau các cuộc đàm phán giữa phái đoàn chính phủ Liên Xô và Anh, ngày 12/7/1941, hai bên đã ký kết thỏa thuận về những hành động chung và sự giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc chiến chống Đức Quốc xã.
Để phát triển thỏa thuận này, cuối tháng 7 cùng năm, chính phủ Anh đã đề nghị chính phủ Liên Xô cho phép các cơ quan tình báo của hai nước tiến hành hợp tác trong cuộc chiến chống lại các cơ quan tình báo Đức Quốc xã. Ngày 13/8, đại tá Guinness, đại diện của Cục Chiến dịch đặc biệt-SOE (Special Operations Executive), đến Moscow để đàm phán về vấn đề này, và ngày 14/8, các cuộc đàm phán về hợp tác bắt đầu. Chúng được tiến hành một cách bí mật, không có phiên dịch lẫn thư ký. Chỉ có Stalin, Molotov và Beria biết nội dung thực sự của chúng. Ngày 29/9, hai văn bản hợp tác giữa các cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô và Anh đã được ký kết.
Xét trên quan điểm tác chiến, các điều khoản chính của hai văn bản thỏa thuận đều hứa hẹn nhiều triển vọng. Các bên cam kết hỗ trợ lẫn nhau trong việc trao đổi thông tin tình báo về Đức Quốc xã và các nước chư hầu, tổ chức và thực hiện các hoạt động phá hoại, tung điệp viên vào các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng.
Hai bên cũng xác định các điều kiện hỗ trợ phong trào du kích ở các nước châu Âu bị chiếm đóng và phân bổ phạm vi hoạt động của mỗi bên: Anh được giao phụ trách Tây Âu từ Tây Ban Nha đến Na Uy và Hy Lạp, Liên Xô - Romania, Bulgaria và Phần Lan. Các vấn đề tổ chức chiến tranh du kích trên lãnh thổ Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư sẽ được thảo luận trong từng trường hợp cụ thể giữa Liên Xô và chính phủ các nước này.
Các văn bản thỏa thuận xác định đối tượng chính của hoạt động phá hoại của Anh và Liên Xô là tất cả các loại hình giao thông và công nghiệp quân sự của kẻ thù.
Các văn bản thỏa thuận dự kiến thành lập các cơ quan liên lạc tương ứng ở Moscow và London với tư cách là những bộ phận điều phối hoạt động của cơ quan tình báo hai nước.
Một ví dụ tiêu biểu về sự hợp tác như vậy trong thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại trên lãnh thổ của nước thứ ba là việc thực hiện chiến dịch "Marauders" (bọn cướp) nhằm t.iêu d.iệt mạng lưới tình báo Đức hoạt động trong những năm chiến tranh ở Afghanistan.
Nhà tình báo Mikhail Allakhverdov.
Afghanistan được các cơ quan tình báo Đức đặc biệt quan tâm ngay từ thời thời Hoàng đế Đức. Ở đất nước phương đông này, có khoảng một triệu người xuất thân từ các nước cộng hòa Trung Á thuộc Liên Xô sinh sống dọc biên giới Liên Xô. Nhiều người trong số đó điên cuồng chống phá chính quyền Xô Viết trong những năm 1920 và 1930 và sẵn sàng cầm vũ khí trở lại ngay khi có cơ hội. Đồng thời, các nước thù địch với Liên Xô, cụ thể là Đức, Ý và Nhật Bản, tìm cách kích động các băng nhóm vũ trang phản cách mạng Basmachi Phong trào vũ trang phản cách mạng của những kẻ dân tộc chủ nghĩa ở Trung Á từ 1917-1926. Hơn nữa, sau khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, các cơ quan tình báo của các nước "trục" (Đức, Ý, Nhật) ở Afghanistan đã chuyển sang chống phá Liên Xô rất dữ dội. Tình hình trên biên giới Liên Xô-Afghanistan thực sự đáng lo ngại: lại xuất hiện nguy cơ xảy ra các cuộc tấn công của phong trào Basmachi vào lãnh thổ Liên Xô.
Từ đầu cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Mikhail Allakhverdov, một sĩ quan an ninh lão luyện được bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô tại Afghanistan.
Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan.
Mikhail Allakhverdov giữ chức vụ này đến năm 1944. Chính ông là người đã cùng với các đối tác Anh tổ chức thực hiện chiến dịch "Marauders" nhằm t.iêu d.iệt mạng lưới gián điệp của cơ quan tình báo quân sự Đức Quốc xã Abwehr trên lãnh thổ Afghanistan trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, phía Anh tìm cách bảo đảm lợi thế cho mình trong chiến dịch và tạo t.iền đề thuận lợi cho việc tiếp tục tiến hành do thám Liên Xô. Cụ thể, tình báo Anh đã cài cắm Bhagat Ram Talvar, điệp viên của mình, vào cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô ở Kabul. Bhagat Ram Talvar là nhân vật nổi bật trong phe "cánh tả" của đảng Quốc đại Ấn Độ, sống ở Afghanistan. Cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô đã kịp thời phát hiện ra ý đồ này và thông báo cho đồng minh Anh.
Mikhail Allakhverdov đã thiết lập mối quan hệ trong công việc với các đại diện của tình báo Anh tại Kabul - Trung tá Lancaster và cố vấn Hayley. Trước hết, cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ cần nhận được thông tin của người Anh về phong trào Basmachi, vì từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh chống Liên Xô, tình báo Đức lại ra sức sử dụng phong trào Basmachi ở miền Bắc Afghanistan cho mục đích riêng của mình. Ví dụ, vào tháng 9 năm 1941, Rasmus, người đứng đầu cơ quan tình báo đối ngoại Đức ở Afghanistan, đã ra lệnh cho Makhmud-bek, viên chỉ huy người Uzbekistan có ảnh hưởng lớn đối với phong trào Basmachi, thành lập một mạng lưới gián điệp và biệt kích ở cả hai bên biên giới Liên Xô-Afghanistan. Sau đó, Makhmud-bek được Abwehr giao nhiệm vụ xây dưng một cứ điểm ở thành phố Baghlan của Afghanistan để đưa gián điệp Đức vào Liên Xô và tiến hành việc tuyển mộ các điệp viên ở các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô.
Nhà tuyển mộ tình báo Liên Xô Aleksandr Korotkov.
Thông tin mà Mikhail Allakhverdov nhận được về việc cơ quan tình báo quân sự Đức Quốc xã Abwehr chuẩn bị tung vào lãnh thổ Liên Xô các nhóm biệt kích đã nhanh chóng được chuyển đến Moscow. Kết quả là tất cả các nhóm này đều bị vô hiệu hóa. Đồng thời, Mikhail Allakhverdov cũng thông báo với Trung tâm rằng tình báo Đức đang lên kế hoạch đưa các đội biệt kích được hình thành từ binh lính và sĩ quan của "Quân đoàn Turkestan" vào các nước cộng hòa Xô Viết Trung Á, trước hết là Turkmenistan. Để huấn luyện những tên biệt kích này ở Ba Lan, một cơ sở huấn luyện bí mật mang tên "Trại SS-20" đã được thành lập ở ngoại ô Wroclaw.
Cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ ở Kabul cũng nhận được thông tin về việc Berlin yêu cầu người đứng đầu Abwehr ở Afghanistan thành lập tổ chức bí mật những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở Turkmenistan. Đồng thời, người Đức tin tưởng rằng những người Turkmen lưu vong ở Afghanistan có thể trang bị vũ khí cho 11.000 phiến quân Basmachi. Tháng 12/1941, thủ lĩnh Basmachi của Turkmenistan, Kyzyl Ayak, đã ra lệnh cho những người ủng hộ của mình chuẩn bị xâm lược các nước Trung Á vào mùa hè năm 1942. Đại sứ quán Đức ở Kabul hứa sẽ cung cấp vũ khí và ngựa cho phiến quân Basmachi.
Cơ quan tình báo đối ngoại của Liên Xô ở Kabul đã phát hiện mạng lưới gián điệp Đức ở Afghanistan và hợp tác chặt chẽ với tình báo Anh ngăn chặn hoạt động của các cơ quan tình báo Đức, Nhật và Ý trong khu vực này. Ví dụ, nhờ nỗ lực chung tình báo Liên Xô và Anh đã ngăn chặn được một cuộc đảo chính do Đức Quốc xã tổ chức và việc đưa quân Đức vào Afghanistan.
Viên chỉ huy người Uzbekistan Makhmud-bek.
Ngày 26/5/1943, theo thỏa thuận đạt được trước với Moscow, công sứ Anh tại Kabul F. Wiley đã gặp Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan yêu cầu bắt giữ các điệp viên phát xít và trục xuất các nhân viên tình báo Đức, Ý và Nhật Bản khỏi Afghanistan. Thủ tướng Afghanistan từ chối thực hiện những yêu cầu này, vì coi đó là hành vi xâm phạm chủ quyền của Afghanistan.
Đến lượt mình, ngày 8/6/1943, tại cuộc gặp với Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan, đại sứ Liên Xô K. Mikhailov đã phản đối mạnh mẽ hoạt động thù địch của đại sứ quán Đức và Ý ở Afghanistan. Công hàm phản đối của Liên Xô đã sử dụng thông tin đáng tin cậy mà Mikhail Allakhverdov nhận được từ các điệp viên của mình, đồng thời dựa trên thông tin của tình báo Anh.
Sau khi bị đại sứ quán Anh và Liên Xô phản đối, chính phủ Afghanistan buộc phải thực hiện các yêu cầu của Anh và Liên Xô. Cảnh sát Kabul tiến hành bắt giữ hàng loạt những người lưu vong từ Trung Á. Còn đến cuối tháng 6/1943, chính quyền Afghanistan đã trao hộ chiếu cho các điệp viên phát xít để rời khỏi đất nước.
Như vậy, đến giữa năm 1943, tình báo Liên Xô ở Afghanistan đã kiểm soát hoàn toàn mọi hoạt động của cơ quan tình báo đối ngoại Đức ở nước này, ở Ấn Độ, cũng như ở các khu vực biên giới Liên Xô.
Cục trưởng Cục Tình báo đối ngoại Liên Xô Fitin đề nghị Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia Merkulov tuyển mộ Rasmus, người đứng đầu cơ quan tình báo Đức ở Afghanistan, bằng cách sử dụng các tài liệu không thể chối cãi về sự thất bại của mạng lưới gián điệp của ông ta. Tháng 12/1943, nhà tuyển mộ tình báo giàu kinh nghiệm Aleksandr Korotkov đã bay tới Kabul để làm việc với Rasmus. Trong cuộc gặp với Rasmus, Aleksandr Korotkov đã trình bày các bản mật mã mà tình báo Liên Xô thu được, cho phép giải mã tất cả thư từ của Rasmus với Berlin và bắt giữ các điệp viên Đức. Rasmus cũng được xem các hóa đơn ghi số t.iền mà các điệp viên Đức được tình báo Liên Xô tuyển mộ chuyển cho phía Liên Xô. Korotkov mời Rasmus hợp tác với tình báo Liên Xô. Đáp lại, ông ta hứa sẽ suy nghĩ và một ngay sau sẽ trả lời. Tuy nhiên, Rasmus đã không có mặt tại cuộc gặp đã định và bí mật rời Kabul vài ngày sau đó.
Chiến dịch "Marauders" t.iêu d.iệt mạng lưới tình báo Đức hoạt động trong những năm chiến tranh ở Afghanistan đã kết thúc thắng lợi.
Các tài liệu tình báo đối ngoại của Liên Xô thời kỳ đó nhấn mạnh rằng "hoạt động của cơ quan tình báo đối ngoại do Mikhail Allakhverdov lãnh đạo đã góp phần gìn giữ an ninh biên giới phía nam Liên Xô trong những năm khó khăn nhất của chiến tranh". Nhờ những nỗ lực của cơ quan tình báo đối ngoại Kabul, tất cả những mưu toan của các nước "trục" nhằm biến Afghanistan thành bàn đạp cho các hoạt động chống phá Liên Xô đều thất bại.
Ngoài ra, bằng những nỗ lực chung, cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô và các đại diện tình báo Anh đã t.iêu d.iệt mạng lưới gián điệp và biệt kích của Đức và Nhật Bản ở Ấn Độ và Miến Điện. Đ.ánh giá cao sự hỗ trợ của Liên Xô đối với các hoạt động của tình báo Anh ở Ấn Độ và Miến Điện, đến lượt mình, người Anh đã tiết lộ cho phía Liên Xô tên t.uổi nhiều nhân viên của các cơ quan tình báo Đức ở Afghanistan và Trung Á, được người Đức tuyển mộ để hoạt động ở hậu phương của Liên Xô.
Các cơ quan tình báo Liên Xô và Anh cũng đã hợp tác thành công trong một số chiến dịch ở Tehran.
Ai Cập, Israel đàm phán về hệ thống giám sát điện tử Theo một số nguồn tin từ Ai Cập cũng như một nguồn tin giấu tên khác, các nhà đàm phán Israel và trung gian hòa giải Ai Cập đang thảo luận về việc thiết lập một hệ thống giám sát điện tử dọc biên giới giữa Dải Gaza và Ai Cập, có thể cho phép Israel rút quân khỏi Gaza nếu đạt được...