Những niềm hy vọng mới trong chữa trị vô sinh
Lưu trữ trứng dưới dạng bột, tạo trứng từ tế bào da, sinh con nhờ cấy ghép tử cung… là những công nghệ điều trị vô sinh đang được nghiên cứu.
Kể từ khi em bé đầu tiên trên thế giới ra đời bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Oldham (Anh) năm 1978, ngành sản khoa đã đi được những bước tiến dài. Cuối tháng 9 vừa qua, một phụ nữ Thụy Điển đã sinh hạ em bé đầu tiên trên thế giới ra đời bằng phương pháp cấy ghép tử cung.
Dưới đây là những đột phá trong công nghệ sinh sản trong vòng 20 năm qua và có thể có ích cho con người trong tương lai.
Lưu trữ trứng theo dạng bột
Phụ nữ trong những thập kỷ tới có thể lưu trữ trứng của mình dưới dạng bột. Khi muốn thụ thai, họ chỉ cần tưới thêm nước và tin.h trùn.g vào những trứng dạng bột này.
Hiện nay, người ta vẫn lưu trữ trứng để thụ tinh về sau bằng cách đông lạnh chúng trong nitơ lỏng. Mới đây, các nhà khoa học Israel đã tìm ra phương pháp trứng bột với nhiều thuận lợi trong bảo quản hơn. Họ đã thành công với thí nghiệm cùng trứng bò. Đầu tiên họ đông lạnh trứng, dùng chưa đến 1/10 giây để trứng đạt được nhiệt độ -200 độ C. Thời gian này là rất ngắn, không đủ để các tinh thể băng (vốn có thể làm hỏng cấu trúc tế bào của trứng) hình thành. Những trứng đông lạnh sau đó được giữ ở nhiệt độ -55 độ C trong một ngày ở áp suất thấp để chuyển thành dạng bột, có thể lưu trữ ở nhiệt độ phòng vô thời hạn.
Tạo trứng và tin.h trùn.g từ tế bào da
Trong tương lai không xa, đàn ông và phụ nữ vô sinh có thể sử dụng tế bào gốc của chính họ để tạo ra các tế bào trứng và tin.h trùn.g trong phòng thí nghiệm. Các tế bào gốc – còn được gọi là tế bào chủ – có khả năng biến thành nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể.
Trong một nghiên cứu được công bố hồi đầu năm nay, các nhà khoa học tại đại học Stanford (Mỹ) đã biến các tế bào da của người đàn ông vô sinh thành tế bào gốc và cấy vào tin.h hoà.n của chuột để trở thành các tế bào tin.h trùn.g giai đoạn đầu. Quá trình này cũng có thể áp dụng để phát triển trứng. Các nhà khoa học Nhật Bản năm ngoái cũng đã biến tế bào da chuột thành các tế bào trứng và tin.h trùn.g.
Điều này về mặt lý thuyết có nghĩa là một người phụ nữ thậm chí không cần lấy trứng của mình khi điều trị vô sinh, mà có thể lấy một mẫu da thay vào đó. Như thế, việc sinh con cũng không còn bị giới hạn về tuổ.i tác bởi nếu đến thời kỳ mãn kinh buồng trứng không còn khả năng rụng trứng đi thì các tế bào da vẫn không ngừng đổi mới.
Video đang HOT
Cấy ghép tử cung và tử cung nhân tạo
Vicent, em bé đầu tiên trên thế giới có mẹ là người được cấy ghép tử cungđã chào đời cuối tháng 9 vừa qua.
Bé Vicent chào đời nhờ phương pháp cấy ghép tử cung – Ảnh: AP.
Các nhà khoa học đã tạo ra một tử cung nhân tạo có thể nuôi dưỡng một phôi thai đang phát triển và cung cấp tất cả các chất dinh dưỡng cũng như những kích thích tố mà nó đòi hỏi trong các giai đoạn phát triển khác nhau của mình.
Từ năm 2003, một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Cornell (New York) đã bắt đầu nuôi phôi của chuột và người trong tử cung nhân tạo.
Các nhà khoa học của Đại học Browm (Mỹ) đã xây dựng một buồng trứng nhân tạo để phát triển trứng. Trước hết, họ lấy một buồng trứng được quyên tặng để tạo ra một cấu trúc 3D giống tổ ong, sau đó cấy trứng người vào. Công nghệ này có thể giúp ích những phụ nữ vô sinh do gặp những vấn đề liên quan đến sức khỏe của buồng trứng như lạc nội mạc tử cung, buồng trứng đa nang…
Trong các thử nghiệm, buồng trứng nhân tạo có khả năng nuôi dưỡng trứng từ giai đoạn nang sớm để trở thành trứng trưởng thành đầy đủ – giống như thật. Người ta cũng hy vọng điều này có thể giúp duy trì khả năng sinh sản của phụ nữ đang điều trị bệnh ung thư.
Cấy ghép dươn.g vậ.t
Cấy ghép dươn.g vậ.t đã được chứng minh là hoàn toàn có thể thực hiện được. Công nghệ này rất có ích cho những người đàn ông bị tổn thương cơ quan sinh sản do chấn thương hoặc bệnh tật. Ca cấy ghép đầu tiên trên thế giới đã diễn ra tại Trung Quốc vào năm 2006. Một người mất “cậu nhỏ” trong ta.i nạ.n đã được cấy ghép bằng bộ phận này của một chàng trai 22 tuổ.i bị chế.t não. Ca phẫu thuật thành công nhưng 15 ngày sau, bệnh nhân này đã phải bỏ bộ phận được trao tặng vì tâm lý không thoải mái.
Xét về góc độ tình cảm, việc cấy ghép “cậu nhỏ” phát triển từ một tế bào của chính bệnh nhân sẽ dễ dàng hơn. Vì thế, các nhà khoa học ở Chicago (Mỹ) đã phát triển mô dươn.g vậ.t trong phòng thí nghiệm. Có điều “cậu nhỏ” cần một hệ thống thần kinh phức tạp để làm việc trong quá trình kích thích tìn.h dụ.c và quan hệ. Đó là một chặng đường dài, nhưng các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô làm từ collagen là mô liên kết, có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng của dây thần kinh ở dươn.g vậ.t mới, làm cho nó có khả năng hoạt động.
Công nghệ sinh con nhân bản
Công nghệ nhân bản vô tính với động vật có vú bước đầu đã thành công bằng sự ra đời của cừu Dolly năm 1996. Nó là bản sao chép hoàn hảo từ con cừu mẹ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất ổn trong công nghệ sinh con nhân bản khi cừu Dolly đoản thọ, chỉ sống được 6 năm rưỡi cùng một loạt vấn đề về sức khỏe.
Năm 2013, trên tạp chí Cell, một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Thái Lan thông báo đã thực hiện thành công một bản sao phôi thai của người.
Theo VNE
Bước tiến mới của kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là quá trình cho trứng và tin.h trùn.g thụ tinh bên ngoài tử cung của người phụ nữ. Trứng thụ tinh (phôi) được đặt trong tử cung của người phụ nữ khoảng 2-3 ngày sau đó. Mang thai thành công có thể được xác nhận khoảng 2 tuần sau đó.
Owen Harper, 9 tháng tuổ.i.
Tác dụng phụ có thể gặp nếu thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo mang đến hi vọng thụ thai cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những nguy cơ về sức khỏe, đặc biệt đối với người phụ nữ.
Thụ tinh nhân tạo có tỷ lệ đa thai đến 20%, thai ngoài tử cung khoảng 2-8%, và tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là 20-30%.
Dữ liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy 60% các bé ra đời bằng thụ tinh ống nghiệm bị sinh non. Điều đó làm tăng nguy cơ bị t.ử von.g trong những ngày đầu và các loại bệnh lý khác (chẳng hạn như chậm phát triển tinh thần, khiếm khuyết ở mắt, tai, học kém...). Những phụ nữ mang song thai, đa thai cũng có nguy cơ bị tai biến thai kỳ cao hơn nhiều.
Hiện nay, phụ nữ thụ tinh nhân tạo thường được tiêm hormone ganadotropin (loại hormone do tuyến yên tổng hợp và phóng thích có tác động trên tin.h hoà.n và noãn) để kích thích rụng trứng. Tuy nhiên, nó cũng có thể dẫn đến hội chứng siêu kích thích buồng trứng (OHSS). OHSS khiến buồng trứng nở gấp vài lần so với kích thước thông thường và khiến 1/3 số phụ nữ làm IVF bị nôn nao và nôn. Khoảng 5% số người bị OHSS có thể bị suy thận.
Hàng ngàn phụ nữ có thể tránh khỏi các biến chứng đ.e dọ.a đến tính mạng nhờ kỹ thuật IVF (thụ tinh nhân tạo) mới.
Owen Harper 9 tháng tuổ.i là một trong những em bé đầu tiên sinh ra nhờ kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (IVF) mới an toàn hơn do Trường ĐH Hoàng gia ở London tiến hành. Kỹ thuật IVF mới có thể giúp hàng ngàn phụ nữ tránh khỏi các biến chứng đ.e dọ.a đến tính mạng.
Hiện giờ, trường ĐH Hoàng gia ở London đã tìm ra hormone kisspeptin cũng kích thích rụng trứng nhưng không để lại tác dụng phụ. Kể từ khi thử nghiệm vào tháng 1/2013, 12 em bé đã ra đời trong đó có Owen Harper.
Theo Phương Vũ
Gia đình Online
Đừng nghĩ có tế bào gốc là bệnh gì cũng chữa được Nhiều người kỳ vọng về khả năng chữa bách bệnh của tế bào gốc, nhưng thưc tê, không nên nghĩ cứ có tế bào gốc là bệnh gì cũng chữa đươc. Về lý thuyết, tế bào gốc có thể chữa được mọi loại bệnh. Nhưng như thế không có nghĩa, cứ lưu trữ tế bào gốc là không phải lo lắng về bất...