Những ngôi chùa nổi tiếng của Sài Gòn
Không chỉ là chốn tĩnh lặng, giúp con người cân bằng tâm hồn giữa chốn phồn hoa đô hội, chùa chiền còn là nơi lưu giữ những dấu tích đặc sắc về kiến trúc, văn hóa, lịch sử…
Giác Lâm – chùa “lớn tuổi” nhất Sài Gòn
Kiến trúc chùa Giác Lâm được coi là tiêu biểu cho lối kiến trúc của các chùa Nam Bộ, với mặt bằng tổng thể theo kiểu chữ Tam, gồm 98 cột chống đỡ, bên trong bài trí 113 pho tượng cổ với nhiều chất liệu khác nhau.
Chùa Giác Lâm thành lập năm 1744 là một trong những ngôi chùa có mặt sớm nhất ở đất Gia Định còn tồn tại đến nay, do cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương xây dựng.
Chùa là ngôi Tổ đình danh tiếng bậc nhất, chứa đựng nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo như hoành phi, câu đối, bàn thờ, đồ thờ cổ… Riêng bộ tượng Thập Bát La Hán là minh chứng rõ nét nhất cho quá trình phát triển của Phật giáo ở Nam bộ.
Điểm đặc sắc trong trang trí là chùa đã sử dụng gần 7.500 chiếc đĩa kiểu cẩn dọc theo hai mặt tường của Tây đường, điện Phật, tháp Tổ, nóc mái… và được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập là ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam.
Địa chỉ: 118 Lạc Long Quân, P. 10, Q. Tân Bình, TP.HCM.
Chùa Vĩnh Nghiêm – Nơi có tháp đá cao và công phu nhất Việt Nam
Tháp đá chùa Vĩnh Nghiêm được ghi nhận là tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam.
Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của Sài Gòn. Con đường phía trước chùa từng là nơi ghi dấu trận chiến cuối cùng của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi năm 1964.
Ngoài ra chùa còn được ghi nhận là nơi có tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam, với 7 tầng, cao 14m được khánh thành vào năm 2003. Tháp được xây dựng với nghệ thuật trổ đá dày đặc, công phu với hoa văn, họa tiết điêu khắc phủ kín… tất cả đều theo phong cách văn hóa Lý – Trần.
Địa chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.7, Quận 3, TP.HCM.
Chùa Hoằng Pháp – Nổi tiếng với khóa tu mùa hè dành cho Teen
Khóa tu mùa hè chia làm 2 đợt, thu hút gần 5.000 học viên tham gia.
Chùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày, rất được các teen hưởng ứng.
Đến đây, bạn được học cách tự chăm sóc bản thân, biết yêu thương, chấp nhận những vấp ngã, khó khăn như là những điều tất yếu. Trong 7 ngày mọi kết nối bên ngoài đều bị cắt đứt, teen phải tập sống “cách ly” với gia đình, không TV, không điện thoại, không internet,…
Khóa tu mùa hè còn là môi trường tâm linh lành mạnh, giúp bạn cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, hóa giải buồn phiền, xây dựng hành trang cần thiết cho tương lai, tìm về về những giá trị sống đích thực. Những bài học Phật pháp không hề khô khan mà trở nên sinh động không ngờ nhờ sự lồng ghép dí dỏm của các thầy. Những quy tắc sinh hoạt nghiêm khắc như đi ngủ, thức dậy sớm… giúp teen “cai nghiện” máy tính. Đây là khóa tu hoàn toàn miễn phí.
Địa chỉ: Xã Tân Hiệp, Hóc Môn, TP.HCM.
Video đang HOT
Xá Lợi – Chùa có tháp chuông cao nhất Việt Nam
Tầng cao nhất có treo một đại hồng chuông nặng 2 tấn, với tiếng chuông ngân nổi tiếng, từng được nhiều thế hệ biết đến qua bài vọng cổ “Tiếng chuông chùa Xá Lợi” do soạn giả Viễn Châu sáng tác.
Chùa Xá Lợi không chỉ được biết đến với kiến trúc và cảnh quan tuyệt đẹp mà còn khá nổi tiếng với những dấu chứng lịch sử về cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo.
Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên là chùa Xá Lợi. Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường.
Chùa nổi tiếng là nơi có tháp chuông cao nhất Việt Nam gồm 7 tầng, cao 32m, khánh thành vào năm 1961.
Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, P. 7, Q. 3, TP.HCM.
Nam thiên đệ nhất trụ – Chùa Một Cột ở miền Nam
Chùa Một Cột ở miền Nam.
Ngoài Chùa Một Cột cực kì nổi tiếng ở Hà Nội, Sài Gòn cũng có một nơi tương tự. Đó chính là “Nam Thiên nhất trụ” gọi nôm na là chùa Một Cột ở miền Nam, do hòa thượng Thích Trí Dũng dựng vào năm 1958 và hoàn tất vào năm 1977.
Nam Thiên Nhất Trụ tuân thủ khuôn mẫu Thăng Long nhất trụ (Chùa Một Cột ở Hà Nội) nhưng thấp và nhỏ hơn. Nhìn từ cổng tam quan, Nam Thiên Nhất Trụ được dựng giữa lòng hồ Long Nhãn, với hoa sen dập dìu trên sóng nước, vừa tạo nét gần gũi tinh khiết, vừa tạo nên không gian thanh tịnh.
Ngoài ra, đến đây bạn còn được chiêm bái tượng Đức Địa Tạng nặng 61kg được đúc bằng kim loại quý.
Địa chỉ: 511 Đặng Văn Bi, P. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TP.HCM.
Vạn Đức – Chùa có chánh điện cao nhất Việt Nam
Tòa chánh điện chùa Vạn Đức cao 43,5m, là toà chánh điện cao nhất hiện nay. Công trình mất 2 năm với hơn 60 thợ xây để thực hiện. Ngoài giá trị về mặt thẩm mỹ, thâm nghiêm, công trình còn là một kiểu mẫu cho nghệ thuật tạo hình trong kiến trúc hiện đại.
Địa chỉ: 23/4 Tô Ngọc Vân, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, TP.HCM.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Bí ẩn ngôi chùa... không sư
Kể từ ngày dựng chùa, trải qua bao cuộc bể dâu, nó vẫn sừng sững, uy nghi và được bao phủ thêm bởi những lớp lang huyền thoại.
Khi màu thời gian dừng lại trên nóc đền thờ Phật, nơi có tượng đôi nghê tọa lạc và màu vôi đã chuyển sang màu đùng đục, cuối đuôi những viên ngói nam đã mục nát vì nắng mưa làm ải cả cái thứ đất sét đã qua lửa lò, than quạt... thì chùa đã trải qua ngót nghét 20 đời thủ từ làm công việc trông nom, chăm sóc.Đó là chùa Hành Thiện (xã Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định). Chùa còn có tên gọi chùa Keo.
Bí ẩn của lời nguyền
Địa thế làng Hành Thiện mang hình con cá chép, làng dành vị trí cao nhất để dựng chùa, thờ Phật.
Một khu đất cao nổi lên nơi đầu mõm rô (gò đất cao nơi cửa sông - PV), án ngữ bờ sông Hồng vào làng. Theo sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập, chùa Hành Thiện do Không Lộ Thiền sư (1016 - 1094) xây cất.
Sân chùa rộng mênh mông và hàng trăm năm nay chùa keo Hành Thiện không có sư ở...
Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch. Tương truyền, khi ngài đắc đạo, Thiền sư Không lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước, có tài thuần phục được rắn, hổ.
Truyền thuyết còn kể, trước khi viên tịch, ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, cứ sau 12 năm, một chủ lễ và 4 viên chấp sự được cử ra để làm lễ trang hoàng tượng thánh.
Những người được cắt cử làm nghi lễ tôn nghiêm này phải ăn chay, mặc quần áo mới, sau khi rước thánh tượng từ cấm cung ra mới dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm gội và tô son lại cho tượng thánh. Họ buộc phải giữ bí mật những điều đã thấy khi trang hoàng tượng thánh. Điều đó càng tạo nên lớp sương bí ẩn bao bọc quanh ngôi chùa nhiều huyền thoại.
Những nét cổ kính, trầm mặc...
Dấu tích đầu tiên của chùa Keo là ở làng Dũng Nhân (huyện Giao Thủy, Nam Định). Năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa; đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi tất cả các dấu tích, cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải dời bỏ quê cha đất tổ, một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng (về sau dựng nên chùa Keo Thái Bình); một phần xuống vùng Xuân Trường, dựng chùa Hành Thiện. Như thế, tính từ khởi nguyên, ngôi chùa mang tên Keo đã tồn tại gần 9 thế kỷ.
Và lịch sử của nó gắn với tên tuổi của Thiền sư Không Lộ - một vị quan văn võ kiêm toàn từ thời Lý, có tài bốc thuốc, chữa bệnh và ăm ắp một bụng kinh luân.
Trong sân chùa rộng mênh mông và hoang vắng, những mái chùa cong cong, những cột, kèo nằm "trơ gan cùng tuế nguyệt"; cửa tam quan đóng im ỉm... Gác chuông hai tầng nằm lặng lẽ. Tất cả dường như đang "chìm đắm trong giấc ngủ". Bà cụ bán hương, giấy vàng nơi cổng, co rúm lại bên cạnh những cây cột lim đã lên nước.
...vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn.
Biết tin có khách đến vãn cảnh chùa, cụ Vũ Ngọc Thức, sinh năm 1932, hiện đang là thủ từ trông coi chùa Hành Thiện, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Sự im lặng của gỗ lạt, gạch ngói hàng trăm năm được "cách ly" qua cánh cửa, một không gian thiền vỡ òa, ào đến trong sự kinh ngạc của khách.
Theo lời của cụ, những người đảm trách làm "thủ từ" đến nay đã mấy chục đời. Những thủ từ trước đều đã về với thiên cổ. Kể từ ngày chùa có mặt trên doi đất hình con cá chép này, mọi việc trông coi, trùng tu, lễ lạt nhất nhất đều do làng đảm nhiệm.
Ngày lễ hội, Ban quản lý chùa, đội bảo vệ toàn là những người do làng cắt cử. Ông chủ lễ được chọn phải là người có những "tiêu chuẩn" đặc biệt: hai ông bà còn song toàn, được ăn yến lão (thượng thọ), gia đình văn hóa, không có "tì vết"...
Ngay như đội bảo vệ, thủ từ cũng phải là những người có "gốc tích". Riêng thủ từ phải theo kiểu "cha truyền, con nối". Đời cha truyền đời con, đời sau kế thừa đời trước.
Người dân trong xóm chia nhau cắt cử trông giữ, trùng tu... chùa.
Cũng như những ngôi chùa khác, nghĩa là chùa cũng bao gồm cổng tam quan, cung chùa Phật, đền thánh, đền thờ đức tổ sư... Trước cổng chùa cũng có hai cây đa cổ thụ ngót bốn trăm tuổi soi bóng xuống mặt hồ; hai dãy hành lang gồm bốn mươi gian gỗ lim, mái ngói vảy cá chạy dọc sân chùa lát gạch nghiêng, viên nào viên nấy cũng rắn đanh một màu lửa nung già dặn.
Giải thích sự thắc mắc của tôi về việc chùa không có bóng dáng của "áo thâm, nón tu-lờ" đứng ra làm nhiệm vụ khói nhang cho Đức Phật, cụ Thức cười đầy cảm thông: "Ngay từ khi tôi lớn lên đã như thế. Bố tôi kế nghiệp của ông nội; ông tôi thừa hành từ cụ cố... Đến đời tôi là đời thứ 7. Tất cả tên tuổi, ngày tháng của những ông thủ từ đều được ghi rõ trong cuốn Hành Thiện xã chí...".
Những điều bí ẩn thường có lý do của nó. Còn lý giải cho sự lạ của ngôi chùa này là huyền thoại truyền miệng trong dân gian. Truyền rằng, khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân làng nơi đây không mấy mặn mà với khói nhang, tượng Phật. Đức Thánh tổ giận dữ mới rời chùa đi nơi khác.
Chùa Keo Hành Thiện.
Trong một đêm, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre, rồi tất cả tượng Phật ngài đều cho cả vào đấy. Ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình, mang theo tất cả tượng Phật về nơi đất mới. Cũng nội trong đêm ấy, khi dân làng Duy Nhất (huyện Vũ Thư, Thái Bình) tỉnh giấc đã thấy ngôi chùa sừng sững mọc lên. Đức Thánh tổ rời bỏ chùa cũ cùng với lời nguyền: sẽ không có sư nào đến ở đất Hành Thiện.
Theo lời nguyền đó, sau này, nhiều lần các vị sư theo sự phân công của Hội Phật giáo về trông coi chùa Hành Thiện, được dăm ba ngày chẳng hiểu vì lý do gì cũng đều khăn gói ra đi. Cũng từ đó, đất Hành Thiện "có tiếng" là đất kỵ sư. Câu chuyện truyền miệng ấy cứ tồn tại theo miệng nhân thế, nó làm cho ngôi chùa càng mang theo những nỗi niềm dã sử.
Giải mã chùa không sư
Song hành cùng với chùa Keo Hành Thiện là sự có mặt của chùa Keo Thái Bình. Hai ngôi chùa cùng gắn với tên tuổi của Thiền sư Không Lộ, người có công truyền bá rộng rãi đạo Phật trong nhân gian. Sự thiên di của chùa trong khoảng thời gian dài mấy thế kỷ (năm khởi nguồn xây dựng tại làng Dũng Nhuệ, Giao Thủy là 1062 - thời tiền Lý); về đất Hành Thiện năm 1588 và "kinh qua" đất Thái Bình năm 1611.
Về mặt quy mô, chùa Keo Thái Bình bề thế hơn nhiều so với chùa Keo Hành Thiện, thế nhưng về kiến trúc là sự mô phỏng gần như nguyên vẹn. Cả hai ngôi chùa đều được dựng bằng gỗ lim, liên kết với nhau bằng mộng ngậm, đinh tre, mộng vược...
Cụ Thế - người kế nhiệm giữ chức thủ từ.
Nghiên cứu về kiến trúc chùa Keo là cả một quá trình đòi hỏi mất nhiều công sức, bởi nó tiêu biểu cho kiến trúc thời tiền Lý và hậu Lê, thời kỳ Phật giáo thịnh trị trên đất nước ta. Sau gần một ngàn năm Bắc thuộc, từ thế kỷ 10, dân tộc ta giành quyền tự chủ, bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ cả về chính trị và văn hóa. Thái Bình và Nam Định khi đó được coi là những vùng "kinh tế mới", gắn với phong trào mở rộng dân cư, khai hoang, lấn đất lập nghiệp.
Cùng với việc xây dựng cuộc sống vật chất của người dân thì các nhà sư cũng đến đây để xây dựng đền chùa, đảm bảo cuộc sống tâm linh cho các cư dân vùng đất mới.
Theo sử sách, vùng đất này có tên gọi là Keo hay vùng đất Giao Thủy, nơi nước sông gặp gỡ với nước sông, nước sông gặp với nước biển tạo nên những vùng hồ nước mênh mông. Trong cái khoáng đạt của tự nhiên như thế, con người phải đối mặt với biết bao thử thách, bao rình rập của tự nhiên, thú dữ.
Người ta cần tìm đến những đấng thần linh để được che chở về tinh thần. Đó cũng là lý do để những ngôi đền, chùa mọc lên với cường độ nhiều ở giai đoạn này. Còn căn cứ theo năm xây cất của chùa Keo Hành Thiện và chùa Keo Thái Bình, so sánh với năm sinh, năm mất của Thánh Không lộ Thiền sư có thể thấy được đó chẳng qua chỉ là sự mở rộng phạm vi truyền bá Đạo Phật của các bậc tăng ni trong dân chúng. Đức Thánh Không Lộ sinh năm 1016, mất năm 1094.
Đến Hành Thiện sẽ không khó để gặp những cảnh bình yên...
Thời gian Ngài sống gắn với việc xây cất chùa Keo trên đất Dũng Nhuệ (huyện Giao Thủy); sau này do trận lụt lớn năm 1611, chùa dời về đất Hành Thiện. Hơn 20 năm sau, chùa Keo Thái Bình mới được hoàn thành (năm 1632). Như thế, sự mở rộng về không gian đó chẳng qua là sự mở rộng phạm vi truyền bá của Phật giáo, do những bậc tăng ni hậu thế kế tiếp công việc của Thiền sư Không Lộ.
Cụ Thức cho hay: "Cả xóm Hành Thiện với 35 hộ dân, hiện tại đều sinh sống trên đất hương hỏa của nhà chùa. Trước, nguyên khu đất này được triều nhà Lý cắt đất cho Đức Không Lộ, nên cả làng phải thay nhau cắt cử để trông coi, thờ cúng ngài. Đó là "cái lý" mà người dân thôn Hành Thiện làm công việc nhang khói, trông coi chùa thay sư sãi".
Theo giadinh.net.vn
Con đường tình yêu Có những con đường đi qua cả trăm ngàn lần, ngày nào cũng mấy bận đi về, mòn cả bánh xe mà chẳng hề đọng lại trí nhớ một thoáng nào. Nhưng có một con đường chưa đi đủ ngàn lần lại gợi nhớ trong em biết bao kỷ niệm. Con đường ấy mang tên "Tình yêu", cái tên âu yếm ngày xưa...