Những lưu ý khi dùng thuốc trị loãng xương
Quá trình loãng xương có diễn biến âm thầm, kéo dài trong nhiều năm, sau 30 t.uổi đã bắt đầu xuất hiện quá trình mất chất xương, mất khá nhiều (trên 50%), thường khoảng vào 50 – 70 t.uổi thì triệu chứng đau mới xuất hiện, chủ yếu ở cột sống lưng hay thắt lưng.
Loãng xương ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và sinh hoạt của người bệnh. Triệu chứng đau, còng lưng làm cho người bệnh gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, công việc và cảm giác mình già hơn, yếu hơn, thậm chí có khi gãy cổ xương đùi thực sự, biến người bệnh trở thành tàn phế. Vì vậy, trong sinh hoạt, làm việc, cần cẩn thận khi đi lại, nhất là những nơi trơn trợt, không để bị té ngã. Khi làm việc, cần tránh những động tác gây chèn ép cột sống như khuân vác nặng, gập mạnh cột sống về phía trước.
Để phòng ngừa loãng xương nên ăn những thực phẩm giàu canxi.
Lưu ý trong điều trị loãng xương
Dùng thuốc nào điều trị?
Khi điều trị loãng xương cần lưu ý, loãng xương phải được điều trị trong thời gian dài nhiều năm và các loại thuốc này hầu hết là đắt t.iền như rocaltrol, miacalcic… thường phải kèm theo cung cấp canxi và nội tiết tố nữ khi cần thiết. Tùy theo dạng loãng xương, bác sĩ sẽ hướng dẫn cho bạn cách điều trị riêng theo từng loại. Bạn không nên tự ý dùng các loại thuốc này.
Các thuốc điều trị loãng xương có tác dụng rất chậm và không phải là thuốc giảm đau nên tình trạng đau có thể vẫn tồn tại và lúc này bác sĩ sẽ cho dùng thêm thuốc giảm đau. Các thuốc này đều có tác dụng phụ gây viêm loét dạ dày ít nhiều. Tốt nhất, bạn phải dùng theo chỉ định và theo dõi của bác sĩ.
Tránh dùng thuốc có thể gây loãng xương
Video đang HOT
Trong việc phòng ngừa bệnh, cần lưu ý tránh dùng kéo dài những loại thuốc có gây loãng xương, điển hình là thuốc có chứa corticoid. Đặc biệt dưới dạng thuốc uống hay thuốc tiêm, có loại tác dụng kéo dài 3 – 6 tháng. Thuốc có chứa corticoid thường bị lạm dụng để chữa các chứng đau nhức khớp vì giá rẻ, dễ mua mà tác dụng giảm sưng, giảm đau nhanh. Một số người lớn t.uổi bị đau nhức khớp đã nghe lời mách bảo của người quen tự mua thuốc uống, vô tình làm trầm trọng thêm bệnh loãng xương.
Bên cạnh tác dụng chữa bệnh, corticoid còn có những tác dụng giữ muối và nước gây phù, tăng huyết áp, suy tim sung huyết, teo cơ, yếu cơ và loãng xương, loét dạ dày, nặng hơn là xuất huyết dạ dày, thủng dạ dày, rối loạn nội tiết, rối loạn k.inh n.guyệt, suy tuyến thượng thận, làm phát triển nặng thêm bệnh đái tháo đường, lao phổi, cườm mắt, tăng nhãn áp, giảm sức đề kháng nên dễ bị nhiễm khuẩn, nhất là nhiễm lao và nhiễm nấm, teo da, teo cơ áp- xe tại chỗ tiêm.
Thực ra, thuốc corticoid không điều trị hết nguyên nhân gây bệnh mà chỉ làm giảm triệu chứng mà thôi. Nhưng với nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nêu trên, chúng ta phải hết sức thận trọng khi dùng thuốc dạng corticoid. Hơn nữa, người bệnh cần ý thức rằng, không phải chỉ có loại thuốc này mới chữa được bệnh mà còn nhiều thuốc khác ít tác hại nhưng vẫn có tác dụng tốt. Bệnh nhân nên dùng thuốc dưới sự chỉ định, theo dõi, kiểm soát của bác sĩ, không nên tự dùng thuốc dù đây là thuốc rất dễ mua.
Phòng ngừa loãng xương
Vấn đề phòng ngừa loãng xương thật sự cần thiết trên những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh loãng xương như người cao t.uổi, phụ nữ sau mãn kinh…
Ăn uống: Trong ăn uống, nên ăn thêm một số chất chứa nhiều canxi như: rau xanh, tôm, cua, thịt, trứng. Có thể dùng thêm sữa. Nên dùng loại sữa chứa nhiều canxi, ít ngọt, không béo. Nhưng cần lưu ý không nên ăn quá nhiều, dễ dẫn đến dư thừa chất dinh dưỡng, thậm chí là béo phì.
Tập thể dục thể thao đều đặn mỗi ngày: Thực tế cho thấy, những người ít vận động, không tập thể dục thể thao, nhất là những trường hợp bị liệt hay phải nằm điều trị lâu tại giường thì quá trình loãng xương xảy ra nhanh hơn bình thường. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy hoạt động thể dục thể thao, vận động cơ bắp làm hạn chế quá trình mất xương và giúp tăng quá trình tạo xương.
Loãng xương là bệnh diễn ra âm thầm trong nhiều năm, lúc đầu còn nhẹ bệnh không có bất kỳ biểu hiện gì nên người bệnh không biết hoặc chủ quan không lo điều trị sớm. Đối với bệnh loãng xương việc ngừa bệnh và phát hiện bệnh sớm rất quan trọng, nhất là những người bước vào t.uổi trung niên, phụ nữ sau t.uổi mãn kinh, những trường hợp đang dùng thuốc có thể gây loãng xương.
Theo VNE
Nhau thai không thể là thuốc
Khi công nghiệp dược chưa phát triển, con người thường dùng thuốc theo cảm tính. Ngày nay có nhiều loại thuốc rất tốt, vì vậy không nên đặt rủi ro cho sức khỏe của chính mình.
Không thể xác định thời điểm nào người ta bắt đầu sử dụng nhau thai, có lẽ từ hàng ngàn năm trước. Trong y học cổ truyền, nhau thai khô gọi là "tử hà sa". Nhau thai là cơ quan liên kết giữa người mẹ và em bé khi còn là bào thai. Nó là một phần thiết yếu của thai kỳ và được đào thải sau khi sinh con. Các chất dinh dưỡng và oxygen được truyền từ m.áu mẹ đến bào thai qua nhau thai. Nhau thai cũng là một hàng rào chắn giúp bảo vệ thai nhi trước nhiều loại vi khuẩn gây bệnh. Y học cổ truyền sử dụng nhau thai để trị cơ thể suy nhược, khí huyết hư tổn như có các bệnh lao, thiếu m.áu, suy nhược thần kinh, viêm phế quản kinh niên ở người cao t.uổi, hen suyễn kéo dài...
Chưa có nghiên cứu nào thuyết phục
Người ta quan sát động vật có vú và thấy rằng chúng ăn nhau thai sau khi sinh (Placentophagy). Nhau thai ở động vật chứa nhiều chất dinh dưỡng và có thể bù đắp sự mất dưỡng chất trong thai kỳ, nhất là sắt. Chính vì vậy, người ta nghĩ nhau thai người cũng có giá trị dinh dưỡng tương tự.
Nhau thai rất quan trọng với thai nhi Ảnh: Tư liệu
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng con người luôn nhận một chế độ dinh dưỡng thích hợp qua thực phẩm trong quá trình mang thai, vì vậy không cần thiết phải ăn nhau thai để bồi bổ.
Vậy nhưng cach chê biên nhau thai lam thưc ăn bô dương co đươc nganh khoa hoc dinh dương hiện đại chưng minh hay chi la truyên miêng dân gian? Đã có những nghiên cứ sau đây về nhau thai:
- Nghiên cứu từ Tiệp Khắc năm 1954 cho thấy uống bổ sung các chế phẩm có nguồn gốc từ nhau thai giúp tăng tiết sữa. Tuy vậy, cho đến nay đã gần 60 năm, nghiên cứu này vẫn chưa được nhân rộng.
- Một nghiên cứu từ năm 1980 báo cáo trong chuyên san Journal of Reproduction and Fertility cho thấy rằng chuột ăn nhau thai sau khi sinh có thể làm thay đổi mức độ hormone ở chuột. Tuy nhiên, sự thay đổi hormone này không đem lại ứng dụng lâm sàng nào.
- Còn rất nhiều nghiên cứu khoa học khác về nhau thai nhưng đa phần "giữa đường gãy gánh" vì các giá trị tôn giáo, văn hóa và cả giá trị khoa học.
Nhau thai là "bệnh phẩm"
Hiên co dang nhau thai trôi nôi đươc bay ban trên thi trương. Câu hỏi mà người tiêu dùng luôn thắc mắc là điêu nay co an toan va bảo đam an toan vê sinh thưc phâm không. Sử dụng nhau thai bừa bãi chắc chắn là không bảo đảm vệ sinh, chưa kể là nhau thai động vật bị bệnh dịch "giả danh" nhau thai người.
Việc xử lý nhau thai chỉ có thể được tiến hành ở bệnh viện. Lưu trữ, chế biến nhau thai tràn lan vô cùng nguy hiểm vì không thể kiểm soát được nguồn bệnh truyền nhiễm thai nhau, dễ lây như viêm gan siêu vi, HIV/AIDS... Hơn nữa, nhau thai là nơi ngăn cản các độc tố từ cơ thể mẹ đi vào bào thai, vì vậy không loại trừ khả năng độc tố còn nằm lại ở nhau thai. Theo quy định của Bộ Y tế, nhau thai được xem là "bệnh phẩm" nên việc xử lý phải tuân theo quy chế quản lý chất thải y tế.
Ngoài các bệnh truyền nhiễm thì trong bánh nhau của sản phụ (nếu bị bệnh) có rất nhiều chất, thành phần có thể gây nguy hại cho sức khỏe người sử dụng. Các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa, nhiễm vi trùng, vi khuẩn, virus, ký sinh trùng... có thể ở tất cả các sản phẩm nhau thai được chế biến không bảo đảm hoặc khi chế biến nhau thai đó, người bào chế có thể cho hóa chất vào và không ai có thể biết đó là loại hóa chất gì, có an toàn không, nếu có gây hại thì gây hại như thế nào. Việc ngâm rượu nhau thai uống để chống lão hóa thì chưa có bằng chứng khoa học nào xác nhận. Việc ngộ độc là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra, chưa kể đến những trường hợp mua trúng rượu pha methanol...
Không nên dùng
Trước đây, Việt Nam có chế phẩm từ nhau thai nhưng nay đã ngưng sản xuất. Hiện các chế phẩm được bào chế từ tạng liệu đã được thế giới khuyến cáo không nên dùng vì không có bằng chứng khoa học cụ thể. Về mặt đạo đức và tâm linh, nhau thai là protein người, việc tiêu hóa protein người chắc chắn sẽ gây tranh cãi ở một số nền văn hóa.
Theo VNE
Nguy cơ tai biến khi hút mỡ nâng ngực Ngoài những tai biến do gây tê hoặc gây mê, quá trình cấy ghép mỡ tự thân cũng có thể gây thuyên tắc mạch - do tế bào mỡ hoặc cục m.áu đông lọt vào mạch m.áu - đe dọa tính mạng người bệnh... Bơm mỡ (fat injection) hay còn gọi là cấy ghép mỡ (fat grafting), hay cấy chuyển mỡ (fat transfer)...