Những lầm tưởng thú vị trong văn hóa ô tô
Có những điều lầm tưởng trong văn hóa xe hơi kéo dài hàng chục năm và vẫn có nhiều người tin về nó.
Người Mỹ không thích xe dẫn động cầu trước
Lầm tưởng: Những người lái xe ở Mỹ không thích, không quan tâm đến những chiếc xe dẫn động cầu trước. Họ chỉ thích những chiếc xe dẫn động cầu sau, trang bị động cơ V8 dung tích lớn. Hoặc nếu là xe bán tải thì phải sử dụng hệ thống dẫn động bốn bánh.
Cadillac Eldorado là một chiếc xe dẫn động cầu trước đậm chất Mỹ. Ảnh: Autocar
Sự thật: Ngày nay, có rất nhiều xe dẫn động cầu trước được bán ở Mỹ, người Mỹ không hề có thành kiến đối với loại xe này. Thậm chí 3 mẫu xe sedan bán chạy nhất tại Mỹ năm 2020 là Toyota Camry, Honda Civic và Toyota Corolla đều là xe dẫn động cầu trước.
Và trong quá khứ cũng vậy, có rất nhiều mẫu xe dẫn động cầu trước xuất sắc được sản xuất tại đây. Ví dụ như mẫu Cadillac Eldorado, sử dụng động cơ V8 dung tích 8.2 lít, dẫn động cầu trước được sản xuất từ năm 1967 đến năm 2002, hoặc mẫu Cord L-29 sản xuất năm 1929.
Cách đặt tên của hãng xe Aston Martin
Lầm tưởng: Mọi người cho rằng cái tên Aston Martin của hãng xe Anh quốc được đặt bằng cách ghép tên của người sáng lập Lionel Martin và Aston Clinton, một thị trấn nhỏ tại Anh.
Ngay cả người Anh cũng lầm tưởng về cách đặt tên của Aston Martin. Ảnh: Autocar
Sự thật: Từ Martin đúng là được lấy từ tên của người sáng lập hãng xe nhưng Aston lại có nguồn gốc từ Aston Hill, tên một giải đua mà Lionel Martin đã tham gia và giành chiến thắng.
Tên của Chevrolet Nova có nghĩa là “Xe không chạy”
Lầm tưởng: Nhiều người nói rằng chiếc Chevrolet Nova không thể bán chạy ở các nước nói tiếng Tây Ban Nha vì “No va” trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “Xe không chạy”.
Chevrolet Nova có nghĩa là ngôi sao vụt sáng. Ảnh: Autocar
Sự thật: Thực tế là trong tiếng Tây Ban Nha, từ “Nova” với trọng âm ở đầu âm tiết đồng nghĩa với từ “Nova” trong tiếng Anh, có nghĩa là một ngôi sao vụt sáng. Cách phát âm giữa “Nova” và “No va” hoàn toàn khác nhau và những người nói tiếng Tây Ban Nha không bao giờ nhầm lẫn giữa 2 từ này.
Đường đua xe Drag có chiều dài đúng bằng 1/4 dặm
Lầm tưởng: Đua xe Drag là một loại hình đua xe thể thao phổ biến tại Mỹ từ những năm thập niên 50. Thể thức thi đấu của đua xe Drag khá đơn giản, các tay đua sẽ chạy trên một đường đua thẳng tắp, chiều dài của đoạn đường đua là 1/4 dặm (1320 feet). Với các giải đua nghiệp dư, chiều dài của đường đua có thể thay đổi nhưng ở các giải đấu chuyên nghiệp quãng đường 1320 feet là bất biến.
Kỷ lục về tốc độ trên đường đua Drag thuộc về chiếc Chevrolet Camaro Funny Car. Ảnh: Autocar
Sự thật: Từ sau cái chết của tay đua Scott Kalitta năm 2008, ban tổ chức đã yêu cầu rút ngắn chiều dài của đường đua xe Drag xuống chỉ còn 1000 feet (khoảng 304m) để đảm bảo an toàn cho các tay đua. Mặc dù chiều dài đường đua ngắn hơn, thế nhưng kỷ lục về tốc độ lại không hề giảm xuống. Tay đua Robert Hight đã lập được kỷ lục 546 km/h trên đường đua này với chiếc Chevrolet Camaro Funny Car vào năm 2017.
Tất cả xe Ford Model T đều màu đen
Video đang HOT
Lầm tưởng: Trong cuốn tự truyện “My Life and Work” xuất bản năm 1922, Henry Ford viết rằng ông đã thông báo cho nhân viên của mình về quyết định chỉ tập trung vào sản xuất một chiếc xe – chiếc Ford Model T, và nói thêm “Bất kỳ khách hàng nào cũng có thể có chọn màu xe yêu thích, miễn là anh ấy thích màu đen”
Điều này làm mọi người cho rằng tất cả các xe Ford Model T sản xuất ra đều được sơn màu đen. Lý do là khi thực hiện sơn xe bằng phương pháp phun sơn, màu đen chính là màu khô nhanh nhẩt, giúp đẩy nhanh tốc độ sản xuất.
Ford Model T còn được bán với nhiều màu sơn khác nhau. Ảnh: Autocar
Sự thật: Ford Model T được sản xuất bắt đầu từ năm 1908, thế nhưng trong 6 năm đầu sản xuất, Ford Model T không hề có màu đen, chỉ từ năm 1914 trở đi, dòng xe này mới được sơn đen hoàn toàn. Vì vậy, đúng là đa số Ford Model T có màu đen, nhưng không phải là tất cả.
Mũi tên bạc là biệt danh của xe đua Mercedes
Lầm tưởng: Mũi tên bạc (Silver Arrow) là tên gọi của những chiếc xe đua Mercedes do Lewis Hamilton, Nico Rosberg, Valtteri Bottas và George Russell điều khiển trong các giải đua xe.
Đội đua Mercedes đã giành được nhiều danh hiệu vô địch với cái tên này trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2020. Cái tên này đã không được sử dụng gần đây vì lớp sơn bạc đã được thay bằng màu đen vào đầu mùa giải 2020 như một tuyên bố của Mercedes chống lại sự phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, câu chuyện về Mũi tên bạc trên thực tế còn dài hơn nhiều.
Cái tên “Mũi tên bạc” không phải là sở hữu riêng của Mercedes. Ảnh: Autocar
Sự thật: Cái tên Mũi tên bạc được sử dụng lần đầu vào giai đoạn 1934-1939. Nó không phải để chỉ riêng những chiếc xe đua của Mercedes mà còn để nói tới xe đua của Auto Union (Audi ngày nay). Hai hãng xe này đã làm mưa làm gió ở các giải đua GP trong thời kỳ đó.
Tới thập niên 50, cái tên Mũi tên bạc lại được sử dụng để đặt biệt danh cho chiếc xe đua W196 F1 của Mercedes. Những chiếc Mercedes gần đây chính là thế hệ thứ 3 được đặt biệt danh này.
Toyota Corolla là mẫu xe bán chạy nhất thế giới
Toyota Corolla được coi là dòng xe bán chạy nhất thế giới.Theo một báo cáo của hãng Toyota vào tháng 8 năm 2021, doanh số của Toyota Corolla đã vượt quá 50 triệu chiếc, hơn 10 triệu chiếc so với tổng của cả 2 dòng xe huyền thoại là Volkswagen Beetle và Ford Model T.
Tuy nhiên, một số người đang nghi ngờ cách tính của Toyota là không khách quan.
Những chiếc Toyota Corolla đời 1966 hoàn toàn khác biệt so với thế hệ hiện tại. Ảnh: Autocar
Sự thật: Dòng xe Toyota Corolla được sản xuất từ những năm 1966 và trải qua 12 thế hệ sản phẩm khác nhau. Ngoại trừ cái tên, thế hệ hiện tại của Corolla không còn giữ lại chút tương đồng nào so với các sản phẩm đời đầu. Ngược lại, những chiếc Ford Model T và Volkswagen Beetle thay đổi rất ít trong dòng đời sản phẩm của nó.
Không có gì nghi ngờ về số lượng những chiếc xe Toyota Corolla được bán ra trên thế giới, thế nhưng sẽ là khách quan hơn nếu coi những thế hệ sản phẩm của Toyota Corolla là những dòng xe riêng biệt.
Động cơ V12 là công nghệ độc quyền của các hãng xe Italia
Lầm tưởng: Không có gì đậm chất Ý hơn động cơ V12 đến từ các siêu xe của Ferrari, Lamborghini, Maserati và Alfa Romeo. Đến nỗi, nhiều người còn cho rằng động cơ V12 là công nghệ độc quyền của các hãng xe nước này.
Một chiếc Jaguar E-Type trang bị động cơ V12. Ảnh: Autocar
Sự thật: Đúng là có rất nhiều siêu xe trang bị động cơ V12 đến từ Ý, thế nhưng người Ý không sở hữu riêng công nghệ này. Các hãng xe khác như BMW, Cadillac, Jaguar , Toyota… cũng sản xuất động cơ V12. Thậm chí người Ý cũng không phải là những người đầu tiên phát minh ra động cơ V12. Động cơ V12 đầu tiên trên thế giới được hãng Putney Motor Works chế tạo tại London, Anh vào năm 1904. Tới năm 1947, Ferrari mới bắt đầu đưa động cơ này lên sản phẩm của mình.
Henry Ford - người biến ôtô từ hàng xa xỉ thành đồ bình dân
Bằng nỗ lực cách tân, kể từ khi thành lập Ford đã hiện thực hoá ước mơ sở hữu ôtô cho hàng triệu người dân Mỹ.
Henry Ford không phát minh ra ôtô. Karl Benz đã làm được điều đó trước ông hàng năm trời. Ông cũng không phát minh ra dây chuyền lắp ráp, nhưng chắc chắn ông nổi tiếng vì điều đó. Khắp thế giới, người ta gọi Henry Ford là nhà cách tân, "cá mập" của ngành công nghiệp Mỹ. Ford có thể không phát minh ra bất cứ thứ gì nguyên gốc 100%, nhưng ông biết cách tiếp nhận những sáng kiến sẵn có và phát triển chúng thành điều gì đó phi thường. Henry Ford muốn đưa ý tưởng về chiếc ôtô dành riêng cho người giàu thành chiếc ôtô dành cho hàng triệu người dân Mỹ.
Những năm đầu đời
Hành trình của Ford bắt đầu từ năm 1863, ông là con của William và Mary Ford, gia đình ông sống trong một nông trại ở Dearborn, Michigan. Người lớn kể lại, từ bé ông đã là một đứa trẻ tò mò và táy máy bẩm sinh. Một dạo, cha ông tặng ông chiếc đồng hồ bỏ túi, thế là ông tháo nó ra thành từng mảnh và ghép lại thành chiếc đồng hồ của riêng mình. Ông mang kỹ năng này đi khắp thị trấn, tháo đồng hồ của bạn bè, của hàng xóm, đôi khi sửa chữa chúng, và sau đó ráp chúng lại thành chiếc đồng hồ hoàn chỉnh. Chẳng bao lâu, ông đã nổi danh là thợ sửa chữa đồng hồ ở địa phương.
Niềm đam mê với hệ thống cơ khí của Henry đưa ông tới thành phố Detroit năm 16 tuổi. Tại đây, ông bắt đầu làm việc với vai trò thợ máy tập sự. Một trong những công việc đầu tiên của ông là ở xưởng cơ khí Flowers Brothers, nơi ông kiếm 2,5 USD một tuần bằng việc gia công van đồng trên máy phay.
Năm 1882, Ford trở lại nông trại của gia đình nhưng chẳng có hứng thú gì với công việc đồng áng. Thay vào đó, ông miệt mài nâng cấp những chiếc máy chạy bằng hơi nước của nông dân địa phương, đồng thời nhận các công việc phụ ở nhà máy và đốn cây lấy gỗ.
Henry Ford (trái) và người bạn thân Thomas Edison.
Năm 1888, ông kết hôn với Clara Bryant, cô gái cùng quê ở nông trại kề bên. Mệt mỏi với việc điều hành xưởng cưa để nuôi gia đình, đôi vợ chồng trở lại Detroit năm 1891, ở đây Ford là kỹ sư làm thuê cho Công ty Điện Thắp sáng Edison của nhà phát minh ra bóng đèn điện Thomas Edison. Ford không biết nhiều về điện lực, nhưng ông coi công việc này là cơ hội để học hỏi thêm nhiều điều mới mẻ. Dù đi bất cứ nơi đâu, ông vẫn mang trong mình trí tò mò mãnh liệt từ thuở bé.
Chỉ trong hai năm, Ford được đề bạt lên chức kỹ sư trưởng ở công ty của Edison. Đó là một công việc kỳ quặc, vì Henry phải sẵn sàng túc trực 24 giờ một ngày. Những lúc không làm việc, ông dành thời gian phát triển nguyên mẫu đầu tiên của chiếc xe hơi chạy xăng trong xưởng máy của mình.
Nhờ hậu thuẫn từ những người bạn đáng tin cậy nhất, nỗ lực của ông cuối cùng cũng được đền đáp bằng chiếc ôtô tự hành đầu tiên, có tên gọi Quadricycle. Động cơ hai xi-lanh, 4 mã lực, chạy xăng được gia cố trong chiếc khung kim loại nhẹ kèm 4 bánh xe trông như bánh xe đạp. Việc điều khiển được thực hiện qua chiếc cần gạt trông như cần điều khiển bánh lái trên thuyền. Cỗ xe chỉ có hai số tiến và không thể chạy lùi.
Quadricycle, ôtô đầu tiên do Ford sáng chế.
Công ty ôtô Ford ra đời
Với thành công chớm nở từ chiếc Quadricycle, Henry chế tạo cỗ xe thứ hai năm 1898 và bắt đầu thu hút được sự quan tâm của giới doanh nhân. Ford không biết chút gì về kinh doanh buôn bán, nên hai lần liên doanh đầu tiên của ông cuối cùng cũng thất bại. Các đối tác kinh doanh thấy nản lòng khi thoả thuận với Ford. Ông chỉ một mực muốn cải tiến ôtô của mình thay vì bán chúng ra thị trường.
Sau hai lần kinh doanh thất bại, Ford bắt đầu chuyển hướng sang lĩnh vực khác, tập trung vào xe đua. Ông phát triển vài mẫu xe đua, thu hút hỗ trợ tài chính để chuẩn bị cho khởi đầu mới. Tháng 6/1903, Henry Ford và Alexander Malcomson, một người buôn than giàu có ở Detroit, sáng lập ra công ty ôtô Ford với số vốn 28.000 USD và 21.000 USD hứa hẹn nữa đến từ bạn bè, họ hàng và các mối quan hệ làm ăn khác.
Giấc mơ mà Ford vẫn luôn nuôi dưỡng cho những chiếc ôtô của mình đã trở thành hiện thực, tại công ty ôtô Ford. Ông không chỉ quan tâm đến việc chế tạo những chiếc ôtô hạng sang chỉ người nổi tiếng và giàu có mới có thể chi trả. Ông muốn bán ôtô cho cả những người Mỹ bình thường. Như Ford từng tuyên bố, "tôi sẽ chế tạo ôtô cho đông đảo nhân dân. Giá của nó sẽ thật thấp để bất cứ ai cũng có thể sở hữu".
Giấc mơ đó đã thành hiện thực với mẫu ôtô đầu tiên của công ty Ford, Model A. Chiếc đầu tiên được bán cho một nha sĩ ở Chicago vào tháng 7/1903. Năm 1904, hơn 500 chiếc Model A đã chạy khắp phố phường. Năm 1907, Ford tiếp tục ra mắt mẫu xe Model N động cơ 4 xi-lanh với giá chỉ 600 USD. Và đây mới chỉ là bước khởi đầu.
Model T và dây chuyền lắp ráp xuất hiện
Ngày 1/10/1908, lúc này Ford đang xây dựng ý tưởng chế tạo mẫu xe nổi tiếng nhất của ông, Model T. Chiếc "Tin Lizzie", biệt danh cho loại ôtô rẻ tiền này của Ford, là thành công bất ngờ tới chỉ sau một đêm. Nó dễ điều khiển, có thể đi trong điều kiện đường sá gập ghềnh, và việc bảo dưỡng rất đơn giản. Quan trọng hơn hết, giá của nó phù hợp với túi tiền của tầng lớp người Mỹ trung lưu.
Ford Model T.
Chẳng bao lâu sau, Ford nhận được nhiều đơn đặt hàng cho Model T đến nỗi ông không kịp sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu ồ ạt, Ford không chỉ xây dựng lại nhà máy lớn hơn ở Michigan, mà ông còn thay đổi hoàn toàn suy nghĩ về việc chế tạo ôtô.
Trong những năm đầu sản xuất Model T, phải rất may mắn Ford mới lắp ráp được vài chiếc ôtô một ngày. Từ hai đến ba công nhân sẽ cùng tập trung lắp ráp một chiếc ôtô, sử dụng bộ linh kiện được sản xuất bởi các công ty khác. Năng suất cao nhất của quy trình chế tạo này tốn 12,5 giờ để hoàn thành một chiếc Model T. Ford muốn cắt giảm con số đó còn một nửa, và còn hơn thế nữa.
Henry và đội ngũ của ông bắt đầu nghiên cứu kỹ thuật sản xuất của những ngành công nghiệp khác. Họ quan sát khu làm việc bên trong của những người thợ sửa đồng hồ, thợ làm súng, thợ làm xe đạp và thợ chế biến thịt. Sau đó họ góp nhặt tất cả những ý tưởng đó và tổng hợp lại thành một quy trình sản xuất. Quy trình đó sẽ cách mạng hoá cách họ chế tạo không chỉ ôtô, mà gần như vạn vật ở nước Mỹ.
Lập luận của Ford vào thời đó khá uyên thâm. Ông cho rằng nếu một công nhân ở nguyên một vị trí và thực hiện nguyên một nhiệm vụ, họ có thể chế tạo ôtô với năng suất cao hơn. Vào tháng 8/1913, ông dùng sợi dây thừng kéo khung của một chiếc Model T ngang qua sàn nhà ở nhà máy tại Michigan, và lắp ráp chiếc ôtô thành công với phương pháp mới. Hệ thống chế tạo mới này không chỉ cắt giảm thời gian sản xuất xuống một nửa. Từ việc làm một chiếc Model T trong 12,5 giờ, nay họ chỉ mất đúng 93 phút.
Việc tăng năng suất chóng mặt này cho phép Henry hạ giá chiếc Model T của ông xuống hàng trăm USD, nhưng điều này cũng tạo ra những vấn đề lớn hơn mà Ford buộc phải xử lý. Điều không ai dự kiến trước là tác động của những công việc lặp đi lặp lại đối với nhân công của ông. Tỷ lệ thôi việc trong phương thức sản xuất theo dây chuyền lắp ráp mới trở thành vấn đề đáng ngại, tới nỗi Ford phải thuê 1.000 công nhân cho mỗi 100 công việc mà họ phải thế vào. Nhưng nhân công vẫn rơi rụng liên tục.
Ford bắt đầu trả lương cho nhân viên của ông 5 USD một ngày, con số gấp đôi mức lương bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào đang trả. Bằng cách ấy, người ta lũ lượt kéo tới nhà máy của công ty Ford tìm việc. Tiền lương tăng lên không chỉ giúp ổn định biến động nhân sự, mà còn khiến nhân viên của ông đủ khả năng mua những chiếc ôtô do chính họ làm ra.
Công nhân đang lắp ráp Ford Model T trên dây chuyền sản xuất.
Tới năm 1922, một nửa số ôtô ở Mỹ là Model T và chúng được bán với giá rất rẻ, chỉ 269 USD. Henry Ford đã thành công trong việc hiện thực hoá mơ ước của mình.
Thăng trầm của Ford
Tới cuối những năm 1920, Henry Ford đã thống trị ngành công nghiệp ôtô với chiếc Model T. Năm 1919, bực bội vì các cổ đông can thiệp vào công ty, ông quyết định mua lại tất cả cổ phiếu và trở thành chủ sở hữu duy nhất. Tuy nhiên, dường như thứ quyền lực này đã che mờ sự sáng suốt của Ford.
Thành công vang đội của Model T thuyết phục Ford rằng đây là mẫu ôtô duy nhất mà mọi người cần đến. Ông bắt đầu phớt lờ các đối thủ cạnh tranh, các hãng xe đưa ra những mẫu ôtô đắt tiền hơn nhưng hợp thời trang hơn, như Chevrolet. Những người điều hành của Ford bắt đầu than thở về sự cần thiết của một mẫu ôtô mới, nhưng Henry để ngoài tai.
Cuối những năm 1920, không thể phớt lờ doanh số đang sụt giảm được nữa, Ford đã phải thực hiện một số thay đổi quyết liệt. Đầu tiên, ông sa thải hàng nghìn nhân viên và ngừng dây chuyền lắp ráp Model T để thiết kế mẫu ôtô hoàn toàn mới. Bấy giờ, Ford đã 64 tuổi và cơ bản là phải bắt đầu lại từ đầu.
Sau đó, ông dời tất cả các công việc sản xuất ôtô sang khu phức hợp công nghiệp quy mô lớn dọc bờ sông Rouge ở Dearborn, Michigan. Tại đây, Ford xây dựng một cơ sở sản xuất chưa từng có. Cơ sở này bao gồm tất cả những nguyên vật liệu và quá trình cần thiết để lắp ráp một chiếc ôtô hoàn chỉnh, bao gồm nhà máy thuỷ tinh, nhà máy thép và dây chuyền lắp ráp.
Quặng sắt và than được vận chuyển trên tàu thuỷ từ vùng Ngũ Đại Hồ và được chở vào bằng tàu hoả. Năm 1927, mọi bước tinh chế nguyên vật liệu và sản xuất linh phụ kiện cho ôtô của Ford đều được thực hiện tại chỗ. Đây là nhà máy lớn nhất thế giới sản xuất thép, thuỷ tinh, lốp xe, và các thành phần khác bất kể ngày đêm cho ôtô của Ford.
Tất cả những thay đổi này cuối cùng dẫn tới sự ra đời của mẫu xe Model A mới, là đòn bẩy để hãng xe Ford tiến về phía trước. Hai năm sau khi mẫu xe được ra mắt, thị trường chứng khoán tuột dốc vào tháng 10/1929, nhưng Ford có đủ khả năng vượt qua được bão tố nhờ vào thành công của Model A. Ông thậm chí còn tìm cách tăng lương cho nhân viên vào thời điểm mọi người đang xếp hàng đói ngấu trong những dãy phát thức ăn trợ cấp.
Cuộc cách tân cuối cùng
Model A chỉ duy trì được sức cạnh tranh khoảng bốn năm trước khi nó bị thay thế bởi cuộc cách tân vĩ đại cuối cùng của Henry Ford, động cơ V8. Khi mẫu V8 mới được ra mắt năm 1932, nó ngay lập tức chiếm được cảm tình của công chúng Mỹ. Mọi người đang thèm muốn những chiếc xe sang trọng hơn và mạnh mẽ hơn, V8 đáp ứng được với tốc độ gần 130 km/h.
V8 là chiếc xe được ưa chuộng không chỉ bởi công chúng Mỹ mà còn bởi những tên cướp nhà băng và gangster trong kỷ nguyên Suy thoái. John Dillinger, một trong những tên gangster nổi tiếng ở Mỹ, đã dành thời gian viết cho Henry Ford một lá thư về chiếc V8 của ông. "Xin chào, ông bạn già. Ông có chiếc xe hơi tuyệt vời đấy. Thật là thú vị khi lái chiếc xe như thế. Khẩu hiệu của ông đáng ra phải là 'Lái xe Ford và xem những chiếc xe khác tụt lại phía sau bạn.' Tôi có thể khiến bất kỳ chiếc ôtô nào khác hít khói xe Ford".
Cỗ xe nổi tiếng của Bonnie và Clyde, Ford V8.
Bộ đôi tội phạm nổi tiếng Bonnie và Clyde cũng yêu thích chiếc V8 tới nỗi phải bày tỏ lời nhận xét đối với Ford. Clyde Barrow từng nói: "Cho dù công việc của tôi không được hợp pháp cho lắm, nhưng cũng xin khen ngợi vì ông đã chế tạo một chiếc xe rất tốt với động cơ V8".
Sự thành công của V8 giúp hãng xe Ford sống sót, nhưng tụt lại ở vị trí thứ ba sau General Motors và Tập đoàn Chrysler. Ngay sau đó thế giới chìm trong Thế chiến II. Ford theo chủ nghĩa hoà bình và đã hoạt động không mệt mỏi để khiến nước Mỹ tránh xa khỏi cuộc xung đột. Tuy nhiên, sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, ông bị buộc phải tham gia vào trận chiến. Công ty của ông đã trở thành một trong những nhà thầu quân sự chủ yếu của quốc gia và cung cấp máy bay, động cơ, xe Jeep và xe tăng.
Henry sau này đã giao quyền điều hành công ty của ông cho cháu nội, Henry II. Ford dành phần còn lại của cuộc đời ông ở đồn điền của gia đình tại Dearborn, Michigan, nơi ông mất ngày 7/4/1947, thọ 83 tuổi.
Top 10 mẫu xe làm nên tên tuổi của hãng Ford Tạp chí Hot Cars vừa bầu chọn ra 10 mẫu xe làm nên tên tuổi của hãng Ford. Đứng đầu là Model T, sản phẩm đầu tiên của hãng xe Mỹ. 1. Ford Model T. 2. Ford Mustang. 3. Ford F-150. 4. Ford GT40 1964. 5. Ford Mustang Mach-E. 6. Ford Thunderbird 1955. 7. Ford Taurus 1986. 8. Ford Escort RS1600 1970. 9....