Những kiệt tác của điện ảnh Việt giữa không khí hào hùng ngày 30/04
Đã 44 năm kể từ ngày chiến tranh chính thức “rời” khỏi nước ta. 44 năm, gần với nửa đời người, nghĩa là nếu ai đó được sinh ra vào ngày độc lập; tuổi thơ, thanh xuân của họ, của con họ và thậm chí là của cháu họ không phải đớn đau nỗi đau bom đạn. Song, cái giá cho niềm hạnh phúc này không hề nhỏ.
Vậy là đã 44 năm (30/04/1975 – 30/04/2019) kể từ ngày nước ta chính thức giành lại độc lập từ tay kẻ thù. Bất cứ cuộc chiến nào khi đi qua đều sẽ hằn lại trên cuộc sống những người dân vô tội, những người lính kiên cường, những gia đình có con ra trận những nỗi đau khó diễn tả. Nếu bạn có ông bà, cha mẹ từng phải đội bom đội đạn, bất chấp kham khổ để chờ ngày độc lập, hẳn câu chuyện của họ về những tháng ngày khốc liệt sẽ đi cùng bạn qua những lời kể sâu sắc. Có thể qua cả những lời ru… “Hạt gạo làng ta, những năm bom Mỹ trút trên mái nhà, những năm cây súng theo người đi xa…”.
Còn nếu bạn không có dịp được nghe những người đi trước kể lại những đoạn hồi ức sống động, cháy bỏng và sâu lắng thì bạn có thể xem qua những bộ phim dưới đây. Những bộ phim điện ảnh này đã khắc hoạ lại một chặng đường lịch sử gian nan mà kiên cường của dân tộc – giai đoạn chống Pháp, chống Mĩ. Để bức tranh về lịch sử của độc giả được xuyên suốt, trình tự của các bộ phim được sắp xếp theo bối cảnh lịch sử trong kịch bản thay vì năm phát hành.
Bộ phim Áo lụa Hà Đông là bức tranh đẹp nhưng đượm buồn về cuộc sống của người nông dân sau khi Pháp thất bại ở Việt Nam năm 1945. Dần (diễn viên Trương Ngọc Ánh) và Gù (diễn viên Quốc Khánh) là hai trong số rất nhiều người nông dân phải bỏ xứ mà đi. Khi phiêu bạt đến Hội An, họ quyết định sẽ ở lại đây lập nghiệp. Thế nhưng, cái nghèo, cái dốt và giặc giã đã vây lấy, lăm le đoạt đi cuộc sống yên bình hằng ao ước. Thậm chí chiến tranh khốc liệt còn cướp đi của họ đứa con gái đầu lòng hiểu chuyện, bé Hội An.
Có thể nói, hình ảnh chiếc áo dài trắng được truyền từ đời mẹ của Gù đến Dần và sau đó là hai người con gái của Dần là chi tiết đắt nhất trong bộ phim. Dù cho số phận có lấm lem và đen đủi với cuộc đời họ ra sao, việc họ quan tâm nhất vẫn là giữ cho tà áo dài đó còn mãi. Bởi lẽ với người phụ nữ Việt Nam thời đó, còn được mặc trên người tà áo dài ngày nào, nghĩa là ngày đó họ còn có quyền hi vọng về ngày độc lập. Ngày mà khắp các nẻo đường, ai ai cũng tự hào được diện áo dài xuống phố.
Chính nhờ những giá trị sâu lắng này mà Áo lụa Hà Đông đã nhận được năm giải Cánh diều vàng năm 2006 và một giải bình chọn của khán giả tại Liên hoan phim quốc tế Busan cùng năm.
Vào những năm 1966 trở đi, chiến trường miền Nam nóng hổi hơn bao giờ hết vì Đế quốc Mĩ ra sức thực hiện các cuộc hành quân tìm diệt (truy lùng bộ đội Việt Nam ở các căn cứ). Vì lẽ đó, có rất nhiều các chiến sĩ đã không thể vượt qua được móng vuốt độc ác của giặc. Ở đó, trong chính những tháng ngày hành quân tìm diệt diễn ra ồ ạt nhất, câu chuyện Mùa gió chướng được lấy cảm hứng và ra đời.
Video đang HOT
Sáu Linh (diễn viên Thuỳ Liên), người chiến sĩ trẻ kiên cường, đã chiến đấu hết mình để buộc kẻ phản diện là Đại uý Long (diễn viên Lý Huỳnh) phải đầu hàng. Để tạo được kì tích này, cô đã phải tận mắt chứng kiến đồng đội của mình hi sinh, chồng của mình suýt bị chôn sống. Thế nhưng, nhờ tình yêu thương của những người dân xung quanh, sẵn sàng che chở cho cô dù biết nếu bại lộ, họ cũng sẽ phải nằm dưới nòng súng hung ác; Sáu Linh đã chiến thắng.
Tuy đây là bộ phim đầu tay, nhưng đạo diễn Nguyễn Hồng Sến đã khẳng định được tình yêu mãnh liệt của mình dành cho điện ảnh. Những ẩn ý như cái tên Mùa gió chướng báo hiệu chiến dịch càn quét vào mùa khô của Đế quốc Mĩ sắp nổ ra (gió chướng là tín hiệu của mùa khô) hay hình ảnh hoa sen chớm nở như tình yêu trai gái buổi đầu ngóng trông ngày hoà bình được nam đạo diễn đặt để vô cùng khéo léo xuyên suốt mạch phim.
Có thể nói, Cánh đồng hoang chính là kí ức không thể nào quên của rất nhiều khán giả có tình yêu lâu bền với điện ảnh Việt Nam. Không phải vì bộ phim có kĩ xảo đỉnh cao hay những cảnh phim mùi mẫn, bộ phim chỉ có một cánh đồng. Thế nhưng, trên cánh đồng này, những diễn viên đã khéo léo dẫn dắt khán giả trở về thời kì chiến tranh khốc liệt nhất. Những ai từng phải trải qua cảm giác chạy giặc, đặc biệt là những người ông, người bà, người cha, người mẹ trong gia đình bạn, sẽ rất xúc động khi thấy lại mình của ngày xưa được tái hiện trên màn ảnh.
Trong phim, hai nhân vật trung tâm – anh Ba Đô (diễn viên Lâm Tới) và chị Sáu Xoa (diễn viên Thuý An) – đã phải tìm cách sống sót dưới làn mưa bom cay nghiệt của không quân Mĩ. Nơi họ nương mình là một cánh đồng hoang. Bởi lẽ đây là cánh đồng hoang, vắng vẻ, nên giặc càng rải bom gắt gao hơn. Gia đình nhỏ của anh Ba và chị Sáu cũng khó khăn hơn trong việc ẩn náu. Đứa con bé bỏng là tài sản lớn nhất của cả hai cũng phải tập quen dần với những tiếng nổ vang rền của bom đạn từ nhỏ. Và xuyên suốt bộ phim, tình yêu họ dành cho con được thể hiện rõ nét qua cách họ trốn chạy sự truy đuổi của quân thù.
Hình ảnh khó quên mà Cánh đồng hoang gieo vào lòng khán giả đó là cảnh phim cuối cùng. Khi anh Ba Đô phải hi sinh vì gia đình, chị Sáu Xoa đã dùng chút sức mỏng của mình bắn rơi chiếc máy bay giặc. Trong máy bay, một tấm ảnh gia đình đã rơi ra. Lời kể của bộ phim vào lúc này trở nên đanh thép hơn bao giờ hết rằng bất cứ một cuộc chiến tranh nào khi nổ ra, dù kẻ mạnh hay kẻ yếu, dù kẻ thắng hay kẻ thua, cũng đều sẽ chịu sự tổn thương do mất mát.
Sau khi thất bại liên tiếp tại chiến trường miền Nam, Đế quốc Mĩ mong muốn leo thang chiến tranh nhằm tạo bất lợi cho Việt Nam khi kí kết Hiệp định Paris. Một trong số những cách Mĩ sử dụng ở Việt Nam lúc đó là điên cuồng ném bom xuống các tỉnh thành bên kia vĩ tuyến 17, Quảng Trị là nặng nề nhất.
Những trận bom đổ xối xả xuống Thành cổ như cách Mĩ trút giận lên Việt Nam. Mấy ai biết được những chiến sĩ đã hi sinh tại trận chiến này chất chứa trong mình ngọn lửa yêu nước đến tận phút cuối cùng. Câu chuyện của bốn anh chiến sĩ trẻ Hoàng (diễn viên Nguyễn Năng Tùng), Thành (diễn viên Lê Văn Thơm), Thăng (diễn viên Tô Tuấn Dũng), Long (diễn viên Nguyễn Thanh Sơn) trong Mùa cỏ cháy đã thay cho rất nhiều người đã nằm lại dưới đất Quảng Trị cất lên tiếng lòng phê phán chiến tranh gay gắt. Dù sau cùng, chỉ có một người trong số họ sống sót, nhưng hình ảnh về những người bạn, đồng đội đã phải ra đi luôn sáng mãi trong tâm trí người ở lại.
Cái tên Mùi cỏ cháy từng xuất hiện trong phim như một câu hỏi dành cho khán giả rằng vì sao lại là cỏ cháy? Và có lẽ, câu trả lời chỉ được giải đáp khi khán giả xem đến những thước phim cuối cùng. Mùi cỏ cháy ở đây chính là mùi của sự sống. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng quả thật mùi cỏ cháy chính là thứ còn lại xộc vào mũi những chiến sĩ may mắn thoát chết sau thảm chiến. Dù đó không phải là mùi hương dễ chịu nhưng khi người chiến sĩ còn ngửi được mùi hương này, nghĩa là họ vẫn còn sống, vẫn còn cơ hội đấu tranh cho hoà bình và những người anh em đã nằm lại.
Hình ảnh người vợ chờ đợi chồng luôn là hình ảnh lung linh và sâu sắc về tình nghĩa phu thê của người phụ nữ Việt Nam. Hình ảnh đó có một thời đã xuất hiện khắp các xóm làng hậu phương khi mà không chỉ có vợ tiễn chồng ra trận mà còn có mẹ từ biệt con. Và với họ, phải chăng sự chờ đợi không tin tức thật sự là nỗi đau tột cùng? Không, có một nỗi đau còn kinh khủng hơn mà chiến tranh đã tàn nhẫn giày vò những người phụ nữ đó là cướp đi người đàn ông của cuộc đời họ, sau đó bắt họ sống trong im lặng, mặc cho sự thật phũ phàng đang ngày ngày giày xéo cõi lòng. Biết người mình yêu đã ra đi nhưng lại không thể khóc một lần như dốc cạn hết tấm lòng để tiễn đưa khác gì bi kịch cuộc đời?
Nỗi đau này được lột tả không sót một cung bậc nào qua bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười. Bộ phim kể về cô Duyên (diễn viên Lê Vân) dù hay tin người chồng đã hi sinh ở chiến trường biên giới Tây Nam nhưng lại không thể kể bí mật này ra với ai. Ngoài vai trò là vợ của người chồng đã hi sinh, cô còn mang trên mình vai trò là một cô con dâu trong gia đình, vì thế cô phải cắn răng che giấu bi thương để không một ai trong gia đình phải đau lòng như cô. Thế nhưng, càng giấu kín, nỗi đau đó càng sâu thêm. Càng bẽ bàng hơn, những nỗ lực của cô lại không được mọi người nhìn nhận, mãi cho đến khi sự thật được phơi bày.
Chi tiết Duyên một mặt thì tìm cách gửi thư thay chồng về để gia đình không lo lắng, một mặt khác lại cố gắng thuyết phục bản thân rằng tin anh hi sinh chỉ là lầm lẫn khiến nhiều khán giả thổn thức. Nhiều người vẫn cho rằng xông pha chiến đấu nơi tiền tuyến mới có đau thương, nỗi đau xác thịt, thế nhưng qua nhân vật Duyên, chúng ta lại thấy được một nỗi đau rất khác, đau từ sâu trong tâm khảm lan toả khắp cơ thể nhưng nước mắt lại không được phép rơi. Chờ đợi đôi khi không phải hạnh phúc, nhất là chờ đợi tin bình an của người mà chúng ta yêu thương.
Có người đã nhận định, điện ảnh Việt Nam từng chạm đến đỉnh cao nhờ vào những bộ phim khắc hoạ chiến tranh một cách trung thực đến trần trụi. Thật vậy và không chỉ có năm bộ phim nêu trên mà có rất nhiều bộ phim có thể chứng minh cho nhận định này. Có lẽ, nỗi đau của chiến tranh thật sự quá lớn, lớn đến nỗi đã ăn sâu vào tâm trí của bất cứ một ai thuộc dân tộc Việt Nam.
Chính vì vậy, cách những người diễn viên thể hiện các nhân vật của mình mới thật nhiệt huyết và tự nhiên như chính dòng máu đỏ yêu nước đang chảy trong tim mỗi người. Và cách mà các khán giả cảm nhận rõ ràng từng chi tiết trên phim lại vô cùng nhẹ nhàng và dễ dàng. Bởi lẽ nếu họ không từng trải qua những câu chuyện xuất hiện trên phim thì ông bà, cha mẹ của họ có lẽ cũng từng sống dưới những thước phim cuộc đời tương tự những gì các diễn viên thể hiện, thậm chí còn khốc liệt hơn. Thế là thế hệ đi trước đã truyền cho thế hệ đi sau tình yêu da diết với dòng phim này. Vì ai cũng thấy mình ở một góc nào đó trong phim chiến tranh, có thể nhiều có thể ít, nên thể loại phim này mới có thể sống mãi với thời gian.
Xem những bộ phim này, chúng ta đôi khi không chỉ có tự hào rằng: “Các bạn xem kìa, ông cha tôi đã từng oai như vậy đấy”; mà xem những bộ phim này cho chúng ta cơ hội thấu hiểu những hi sinh to lớn mà cha anh ta đã phải chấp nhận, bao gồm thanh xuân, tình yêu và gia đình.
Theo saostar
Từ những bộ phim kinh điển nghĩ về phim Việt hôm nay
Điện ảnh Việt Nam từng để lại dấu ấn không chỉ với công chúng trong nước mà còn tạo ấn tượng với thế giới, gặt hái những giải thưởng quốc tế qua những bộ phim như "Cánh đồng hoang", "Chung một dòng sông""Vĩ tuyến 17 ngày và đêm", "Nổi gió", "Em bé Hà Nội", "Bao giờ cho đến tháng Mười", ... Thế hệ đi trước đã đặt những viên gạch nền vững chắc, song sự tiếp nối của ngày hôm nay thì sao?
Nghệ sĩ Lâm Tới trong phim "Cánh đồng hoang", một thời nổi danh.
Dòng sông không ngừng trôi
Thế hệ đi trước đã tạo ra những nền móng vững chắc còn sự tiếp nối của ngày hôm nay thì sao? Đây là một câu hỏi lớn, một vấn đề lớn, mà hẳn là từ những góc nhìn khác nhau sẽ có những cách lý giải khác nhau. Nhưng chắc chắn, nhiều người đều thống nhất rằng, "dòng sông" điện ảnh Việt vẫn không ngừng chảy. Và ở mỗi thời kỳ, cách "chảy" là khác nhau, điều đó tạo nên sự phong phú đồng thời bộc lộ những ưu khuyết của từng thời kỳ.
Nhắc đến điện ảnh Việt Nam, người ta thường nhắc tới những thế hệ làm phim với những tên tuổi như các đạo diễn Nguyễn Hồng Sển, Hải Ninh, Lê Hoàng Hoa, Lê Dân, Đặng Nhật Minh...; các diễn viên: Trà Giang, Kiều Chinh, Thế Anh, Lan Hương... đã từng tạo nhiều dấu ấn với "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm", "Nổi gió", "Em bé Hà Nội", "Bao giờ cho đến tháng Mười", "Cánh đồng hoang"... Đến nay, những tác phẩm điện ảnh này vẫn còn được nhiều người nhắc. Sau thời kỳ này, khi bước vào thời kỳ đổi mới, điện ảnh Việt Nam lấy lại được khán giả với những bộ phim ăn khách như "Gái nhảy", "Những cô gái chân dài" của đạo diễn Lê Hoàng. Bên cạnh đó, một số bộ phim Việt Nam đã được khán giả nước ngoài biết tới, trong đó nhiều phim của các đạo diễn Việt kiều như "Mùi đu đủ xanh" của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng đã được đề cử giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1994.
Kế đó, điện ảnh Việt cũng chứng kiến một thời làm phim theo kiểu "mì ăn liền". Sang đầu thế kỷ 21, điện ảnh Việt lại có bước chuyển mạnh mẽ khi nhiều nhà làm phim đầu tư nhân lực, vật lực để sản xuất những bộ phim hướng ra thị trường chiếu rạp. Sự góp mặt của nhiều đạo diễn Việt kiều như Hồ Quang Minh ("Thời xa vắng"), Đoàn Minh Phượng ("Hạt mưa rơi bao lâu"), Nguyễn Võ Nghiêm Minh ("Mùa len trâu"), Lưu Huỳnh ("Áo lụa Hà Đông", "Huyền thoại bất tử")... đã nhường lại sân cho thế hệ tiếp theo với những cái tên mới như: Charlie Nguyễn ("Dòng máu anh hùng", "Để Mai tính", "Long Ruồi", "Cưới ngay kẻo lỡ"), Victor Vũ ("Chuyện tình xa xứ", "Giao lộ định mệnh", "Cô dâu đại chiến", "Thiên mệnh anh hùng")... đã làm cho điện ảnh Việt có những màu sắc khác. Và chúng ta nhận thấy, các bộ phim này đã thu hút được một bộ phận khán giả, kéo họ đến rạp. Thành công của những bộ phim có tính thương mại đã làm nên nhiều kỷ lục phòng vé mà trước đó ở Việt Nam chưa ai làm được.
Nhiều ý kiến cho rằng, ưu điểm của các đạo diễn Việt kiều là có tay nghề. Đặc biệt với các đạo diễn đến từ Mỹ, nơi môi trường phim giải trí đã rất phát triển nên kỹ năng và cách suy nghĩ của họ về phim giải trí vì thế mà cũng gần hơn với chuẩn mực. Với thế mạnh đó, họ dễ dàng nhận được sự ủng hộ của các nhà sản xuất đang đi tìm cách làm phim mới để thu hút khán giả hơn. Thêm nữa, họ xuất hiện đúng thời điểm khi mà các đạo diễn trong nước khá ít, lại đang "loay hoay" tìm đường, thì ngay lập tức, những tác phẩm điện ảnh với góc nhìn mới, cách khai thác mới, lại đánh trúng tâm lý khán giả đã nhanh chóng tạo nên dấu ấn, và gặt hái ở góc độ thương mại.
Tư duy "ăn xổi"
So sánh luôn là sự khập khiễng và thường là khởi đầu của những mối bất hòa, những tranh luận. Bởi ở mỗi thời điểm, mỗi giai đoạn, và cụ thể là với từng bộ phim, các nhà sản xuất, nhà đầu tư, đạo diễn có những mục đích riêng. Họ làm phim theo những mong muốn của họ. Cũng như thế hệ trước đây có những khuôn khổ riêng, họ phải làm phim để trước hết với mục đích tuyên truyền, hoặc do sự chỉ đạo, định hướng nào đó.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, quan sát trên thị trường điện ảnh không khỏi băn khoăn về sự "bùng nổ", "trăm hoa đua nở" của các nhà sản xuất phim vớ những "mánh lới" khác nhau. Trong khi kịch bản thiếu, người ta đô xô mua kịch bản nước ngoài về làm lại, hình thành hẳn cả một dòng phim remake. Những bộ phim "nửa Việt nửa Hàn" khuấy đảo các phòng vé, chưa kể sự Việt hóa không tới, hoặc chưa đủ tầm để xảy ra những sai sót đáng chê trách mà năm qua, "Hậu duệ mặt trời" phiên bản Việt là một ví dụ.
Bên cạnh đó, là sự đầu tư hay dàn dựng cũng chưa thể nói là đã cao, thậm chí còn rất hời hợt, nhất là ở những bộ phim mang tính "mùa vụ" , "ăn xổi" với hài nhảm, nhạt nhẽo... Nhưng khán giả vẫn phải bỏ tiền mua vé, và xem xong, nhiều người tiếc ngẩn khi đã "chọn nhầm". Nếu cũng với số tiền đó, họ mua vé xem phim nước ngoài chiếu trên rạp thì mãn nhãn với kỹ xảo, cách dàn dựng công phu và chuyện phim hấp dẫn.
Tất nhiên, cần kêu gọi người Việt xem phim Việt. Nhưng phim Việt đừng làm mất niềm tin của khán giả, đừng chỉ khiến khán giả móc ví trả tiền mà ít quan tâm đến tâm lý khán giả, và quan trọng không kém là nuôi dưỡng tình yêu của họ với điện ảnh nước nhà.
Một thế hệ điện ảnh mới đang hình thành và vươn ra thế giới
Nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm- tác giả cuốn sách "101 bộ phim Việt Nam hay nhất" cho rằng, "chúng ta có nhiều bộ phim hay, cảm động và để lại dấu ấn sâu đậm với khán giả. Qua những bộ phim, tôi cảm nhận được tâm hồn, văn hóa, con người Việt Nam". Đây cũng chính là tiêu chí của anh khi lựa chọn 101 bộ phim cho cuốn sách của mình. Đặc biệt, những bộ phim nói về vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, vẻ đẹp của văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam bằng điện ảnh và phải do nghệ sĩ Việt Nam (hoặc gốc Việt) sáng tạo.
Theo ông Lê Hồng Lâm, nếu phải chọn 10 phim Việt hay nhất để giới thiệu với thế giới, thì danh sách đó như sau: Bao giờ cho đến tháng Mười, Cánh đồng hoang, Mùi đu đủ xanh, Xích lô, Thương nhớ đồng quê, Mùa len trâu, Mùa ổi, Ba mùa, Đời cát, Bi, đừng sợ! "10 bộ phim này là những phim đoạt các giải thưởng điện ảnh quan trọng tại một số liên hoan phim quốc tế hay các cuộc bình chọn uy tín của thế giới nên tôi nghĩ chúng đã tiệm cận với trình độ kỹ thuật hoặc thẩm mỹ của điện ảnh thế giới. Nhưng quan trọng hơn, xem những bộ phim này, ta thấy chân dung của con người, văn hóa Việt Nam hiện lên rõ nét và không trộn lẫn với bất cứ một nền văn hóa nào khác. Những giá trị cốt lõi của tinh thần Việt Nam mà các bộ phim này chạm được, tôi nghĩ còn quan trọng hơn kỹ thuật, bởi kỹ thuật chỉ là một phương tiện biểu đạt cho điều cốt lõi này mà thôi"- nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm chia sẻ.
Bằng quan sát của mình sau hơn 20 năm theo dõi điện ảnh, xem hàng ngàn bộ phim của điện ảnh Việt, Lê Hồng Lâm nhận thấy một điều là điện ảnh Việt Nam gần như không có giai đoạn nào thực sự "cất cánh và bay cao". "Nhưng thời nào cũng vậy, giữa hàng loạt những bộ phim tầm thường, vẫn có những bộ phim khiến ta lay động và có niềm tin rằng, những tài năng của điện ảnh Việt Nam dù ít, nhưng luôn luôn hiện hữu. Vì vậy, tôi hiếm khi thấy bi quan về điện ảnh Việt"- Lê Hồng Lâm cho biết, và thêm rằng: "Tôi không hy vọng một cuộc "cánh cánh và bay cao", nhưng tôi cảm nhận có một thế hệ điện ảnh mới đang dần dần hình thành và vươn ra thế giới. Tất nhiên, sức ảnh hưởng của họ đến đâu thì phải chờ thời gian trả lời".
Chia sẻ về những bộ phim giải trí hiện nay, theo ông Lê Hồng Lâm, khán giả cũng không nên có cái nhìn quá tiêu cực về điện ảnh Việt, bằng chứng là gần đây vẫn có những bộ phim hay, đủ sức hấp dẫn lôi kéo khán giả tới rạp. Điều đó cũng chứng tỏ khán giả vẫn còn yêu và ủng hộ phim Việt.
Cảnh trong phim "Lật mặt" đang ăn khách.
"Người Việt Nam hay có một định kiến về phim Việt Nam, họ cho rằng điện ảnh Việt Nam không có gì. Đó chỉ là những bộ phim không mang lại giá trị gì về mặt nghệ thuật hay tinh thần"- nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm cho rằng đó là những nhận định sai lầm của người Việt đối với nền điện ảnh nước nhà. Bởi theo anh, hiểu và yêu phim Việt cũng giống như hiểu và yêu một người không phải vì người đó vốn dĩ đã hoàn hảo, mà vì người đó đã nỗ lực đạt gần tới chỗ hoàn hảo trong khả năng có thể, và mang tiềm năng cho sự hoàn hảo trong tương lai.
Theo daidoanket.vn
Tôn vinh tinh hoa của điện ảnh Việt Nam 101 bộ phim Việt Nam hay nhất (ảnh) là cuốn sách mới nhất vừa ra mắt của nhà báo chuyên viết về điện ảnh Lê Hồng Lâm, tập hợp 101 bộ phim được sản xuất từ năm 1953 đến 2018. Mùi đu đủ xanh - phim của đạo diễn Trần Anh Hùng - được giới thiệu trong sách - ẢNH: TƯ LIỆU Độc...