Những giả thuyết về cái chết của nhà tình báo Nikolay Kuznetsov
Nikolay Kuznetsov giữ một vị trí đặc biệt trong danh sách những nhà tình báo Liên Xô kiệt xuất của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi hiện nay, mặc dù đã có rất nhiều tài liệu viết về ông, vẫn có không ít tin đồn và suy đoán khác nhau xung quanh tên tuổi ông. Trước hết là nguyên nhân cái chết của nhà tình báo này.
Mùa hè năm 1942, sau khi hoàn thành một khóa huấn luyện đặc biệt, Nikolay Kuznetsov với cái tên Nikolay Grachyov (mật danh “Pukh”), được bổ sung vào đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng”, do đại tá, Anh hùng Liên Xô, Dmitry Medvedev chỉ huy.
Tại thành phố Rovno ở Ukraine, Nikolay Kuznetsov hoạt động dưới vỏ bọc Trung úy Paul Siebert. Ông không chỉ thu thập được những thông tin chiến lược quan trọng của kẻ thù mà còn thực hiện hàng loạt vụ ám sát. Nikolay Kuznetsov đích thân tiêu diệt khoảng 10 tướng lĩnh và quan chức quân sự cao cấp của Đức Quốc xã.
Tháng 3/1944, Nikolay Kuznetsov hy sinh. Theo sắc lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô ngày 5/11/1944, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Nhà tình báo Nikolay Kuznetsov.
Bài viết sau đây trình bày những giả thuyết khác nhau về nguyên nhân cái chết của nhà tình báo.
Tháng 1/1944, theo chỉ thị của Dmitry Medvedev, Nikolay Kuznetsov đến tỉnh Lvov cùng với trợ lý Yan Kaminsky và tài xế Ivan Belov. Đội đặc nhiệm cũng dự định chuyển căn cứ tới những địa điểm này. Tuy nhiên, thật bất ngờ, sau khi Nikolay Kuznetsov ra đi, đội nhận được lệnh rút về hậu cứ.
Có rất ít thông tin đáng tin cậy về số phận tương lai của Nikolay Kuznetsov. Liên lạc với Moscow tạm thời bị gián đoạn, các cuộc gặp gỡ ở Lvov không thành công. Trong khi đó, người ta đã xác định chính xác rằng, trong điều kiện cảnh sát dồn toàn bộ lực lượng để truy bắt Paul Siebert, Nikolay Kuznetsov vẫn không từ bỏ hoạt động tình báo. Vượt qua những cái bẫy và ổ phục kích được bố trí khắp nơi, ông đã thủ tiêu tên Phó tỉnh trưởng tỉnh Galicia là Otto Bauer, sau đó là Chánh văn phòng chính phủ Heinrich Schneider.
Ngoài ra, trong một nỗ lực bất thành nhằm đột nhập vào sở chỉ huy của Lực lượng Không quân Đức, Nikolay Kuznetsov đã tiêu diệt Trung tá Peters và Thiếu tá Kanter tại đồn hiến binh dã chiến gần làng Kurovitsa.
Do chiếc xe đã bị bọn hiến binh bắn thủng lốp, Kuznetsov, Kaminsky và Belov chạy vào rừng.
Chẳng bao lâu, họ tình cờ vấp phải một đội tự vệ người Do Thái ở Lvov do O. Baum chỉ huy. Tại đây, Nikolay Kuznetsov đã viết một bản báo cáo về hoạt động tình báo và ám sát diễn ra ở tỉnh Lvov rồi đi về phía mặt trận, mang theo bản báo cáo này. Sau khi báo cáo rơi vào tay những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine, họ dễ dàng xác định được danh tính của viên “sĩ quan Đức”. Nhiều người đổ lỗi cho Nikolay Kuznetsov về sự việc này, đồng thời tuyên bố rằng một nhà tình báo thực thụ không được hành động như vậy.
Ngược lại, những người khác lại cho rằng khi mang theo bản báo cáo, Nikolay Kuznetsov đã hành động như một nhà tình báo chuyên nghiệp, bởi vì ông nhận ra rằng mình có rất ít cơ hội sống sót. Đó là lý do tại sao ông ký mật danh “Pukh” vào bản báo cáo vốn chỉ có ban lãnh đạo KGB biết, đồng thời hiểu rằng bất kể tài liệu này rơi vào tay ai, cơ quan trung ương của Bộ Dân ủy Nội vụ vẫn biết về cái chết của ông. Cuối cùng, điều này đã xảy ra. Trong khi đó, câu hỏi về việc ông hy sinh bao giờ, ở đâu và trong hoàn cảnh nào cho đến nay vẫn chưa được giải đáp rõ ràng.
Ở một mức độ nào đó, câu hỏi này khiến chính các đồng đội của Nikolay Kuznetsov hết sức bối rối. Các thành viên đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng” của Dmitry Medvedev, với mục đích độc quyền chân lý, sau chiến tranh đã ủng hộ hai nhóm giả thuyết khác nhau.
Các nữ du kích Maria Mikota và Lidya Lisovskaya.
Video đang HOT
Vào đầu những năm 50, giả thuyết do Dmitry Medvedev đưa ra trong cuốn sách “Chuyện ở ngoại ô Rovno” của ông viết năm 1948, được coi là chính thức. Theo Dmitry Medvedev, Nikolay Kuznetsov bị lực lượng quân nổi dậy Ukraine bắn chết ngày 2/3/1944 trong khu rừng gần làng Belgorodka, tỉnh Rovno.
Theo giả thuyết của nhà tình báo Nikolay Strutinsky, Nikolay Kuznetsov mất ngày 9/3/1944 gần làng Boratin (Boryatino), thuộc tỉnh Lvov.
Ngoài ra còn có một nhóm ủng hộ giả thuyết của Dmitry Medvedev, đứng đầu là Đại tá S. Stekhov, cựu chính ủy đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng”. Ông xác định rõ địa điểm Nikolay Kuznetsov qua đời ở làng Milcha, huyện Dubensky, tỉnh Rovno (làng Milcha cách làng Belgorodka khoảng 7 km).
Bây giờ xin nói về những giả thuyết khác dựa trên các tài liệu của Đức Quốc xã, được phát hiện sau khi giải phóng Lvov. Có rất nhiều, nhưng đáng chú ý nhất là bức điện của giám đốc Cảnh sát An ninh tỉnh Galicia, Tiến sĩ Josef Witiska, gửi Trung tướng Muller ngày 2/4/1944. Theo đó, dựa trên thông tin của một dân biểu Ukraine, ngày 2/3/1944, gần làng Belgorodka, ở huyện Verba (Volyn), 3 “điệp viên Nga -Xô đã bị bắt. Trưởng nhóm mang mật danh “Pukh”, những người còn lại là Jan Kaminsky (người Ba Lan) và tay súng Ivan Vlasovets (biệt danh “Belov”), lái xe của “Pukh”. Hơn nữa, bức điện còn nói về việc phát hiện một báo cáo hoạt động tình báo và khủng bố trên lãnh thổ tỉnh Lvov và kết luận rằng “Pukh” chắc chắn là điệp viên tình báo hoạt động dưới vỏ bọc Trung úy Paul Siebert.
Tài liệu này cũng cho biết Nikolay Kuznetsov và các đồng đội của ông đã bị lực lượng nổi dậy Ukraine bắt sống và họ sẵn sàng giao cho quân Đức các tài liệu, kể cả bản báo cáo của “Pukh”, với điều kiện là vợ và con gái thủ lĩnh của họ, Nikola Lebed, bị bắt làm con tin, được trả tự do.
Trong khi đó, một số chuyên gia, kể cả nhà văn Teodor Gladkov, sau khi phân tích nội dung bản báo cáo của Nikolay Kuzntsov, đã đưa ra kết luận rằng rất có thể các chiến sĩ tình báo đã hy sinh trong cuộc chiến đấu với những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine. Để củng cố thêm lập luận của mình, T. Gladkov đã trích dẫn ý kiến của A. Lukin, người phụ trách bộ phận tình báo của đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng”. Dựa trên thông tin của một kẻ giấu tên, A. Lukin dự đoán rằng Kuznetsov, Kaminsky và Belov “đã gặp một toán quân nổi dậy Ukraine mặc quân phục Hồng quân và chỉ đến phút cuối cùng họ mới nhận ra sai lầm chết người của mình”.
Nhiều năm liền, cùng với anh trai mình thu thập thông tin về cái chết của Nikolay Kuznetsov, nhà tình báo Nikolay Strutinsky coi giả thuyết của Medvedev là không có cơ sở. Với sự trợ giúp của một người hàng xóm tên là Stepan Golubovich, ông khẳng định đã xác định được nơi chôn cất Nikolay Kuznetsov. Stepan Golubovich nói rằng Nikolay Kuznetsov chết trong nhà ông ta sau khi tự nổ tung bằng lựu đạn.
Với sự có mặt của các nhân chứng, đại diện chính quyền, cơ quan công tố và KGB, người ta đã khai quật mộ và di dời hài cốt của Nikolay Kuznetsov. Sau đó, họ lập một biên bản có chữ ký của những người tham gia vụ khai quật: chuyên gia pháp y thành phố Lvov, Zelengurov, và điều tra viên cao cấp của KGB, Đại úy Rubtsov. Tháng 12/1959, Cục An ninh quốc gia tỉnh Lvov giao cho Viện sĩ M. Gerasimov tiến hành công việc giám định. Ông cũng được trao 17 bức ảnh của Nikolay Kuznetsov để đối chiếu. Ngày 29/12, viện sĩ kết luận rằng các bức ảnh và hộp sọ thuộc về cùng một người với xác suất gần 98%.
Sau đó, ngày 27/7/1960, hài cốt của Nikolay Kuznetsov được cải táng tại nghĩa trang quân đội “Đồi Vinh quang” ở Lvov. Nghĩa là lần này giả thuyết của N. Strutinsky được công nhận chính thức. Nó được công bố trong tất cả các bộ bách khoa toàn thư. Cụ thể, tác giả cuốn cẩm nang “Những anh hùng Liên Xô” khẳng định rằng Nikolay Kuznetsov hy sinh “vào đêm 9/3/1944 gần làng Boratin (quận Brodovsky, tỉnh Lvov), sau khi nổ tung mình và các kẻ thù đứng cạnh ông bằng lựu đạn”.
Còn khi nhóm của Đại tá Stekhov tiến hành khai quật ở làng Milcha, dựa trên những phân tích được thực hiện bằng “các phương pháp hiện đại hơn”, họ tuyên bố rằng Nikolay Kuznetsov thực sự được an táng tại đây…
Nhưng chưa hết. Vào giữa những năm 80-90, bắt đầu xuất hiện các bài viết, trong đó người ta trình bày các giả thuyết mới. Ví dụ, dựa vào một cựu binh giấu tên của đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng”, nhà tình báo K. Zakalyuk khẳng định rằng Nikolay Kuznetsov bị sát hại không phải bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine mà là bởi chính các chiến hữu của mình. Zakalyuk cho rằng các nhân viên an ninh Liên Xô có thể đã thủ tiêu Kuznetsov để trả thù cho vụ ám sát bất thành tên trùm quốc xã Erich Koch, kẻ chịu trách nhiệm về các vụ giết hại dân thường hàng loạt tại những vùng chiếm đóng…Ngoài ra, có cả những giả thuyết khác, thậm chí còn khó tưởng tượng hơn.
Tượng đài Nikolay Kuznetsov ở thành phố Ekaterinburg.
Trong số các giả thuyết mới nhất, giả thuyết được nhà báo Liên Xô Nikolay Dolgopolov trình bày trong cuốn sách “Những nhà tình báo huyền thoại” là có sức thuyết phục và hợp lý nhất. Ông cũng cho rằng Nikolay Kuznetsov đã bị sát hại ngày 9/3/1944 tại nhà của Stepan Golubovich ở làng Boratin. Hôm ấy, Nikolay Kuznetsov vội vã đến ngôi làng đặc biệt này, bởi ông cần gặp nữ hiệu thính viên V. Drozdova của đội đặc nhiệm “Những người chiến thắng” ở đấy (ông không biết rằng cô đã bị phục kích và hy sinh).
Ngay khi họ vừa bước vào ngôi nhà của Golubovich và chuẩn bị ăn lót dạ, thì có khoảng tám người xông vào. Nikolay Kuznetsov hình như bắt đầu tìm chiếc bật lửa và nói điều gì đó với người bạn đồng hành của mình. Đúng lúc đó, quả lựu đạn phát nổ và ông ngã khuỵu xuống sàn nhà.
Đồng thời, N. Dolgopolov cho rằng trước đó Nikolay Kuznetsov đã bị một kẻ nào đấy trong thành ủy Rovno phản bội. Đặc biệt, sau khi thành phố Rovno được giải phóng, nữ tình báo Lidya Lisovskaya, trợ lý của Nikolay Kuznetsov, nhiều lần nói về điều đó.
Khi những người du kích ở Rovno được mời đến Kiev, tất cả đều đi tàu hỏa, chỉ riêng Lisovskaya và chị họ của bà, nữ du kích Maria Mikota, không hiểu sao lại đi bằng xe tải. Trên đường đi, ngày 26/10/1944, họ bị sát hại nhưng không tìm ra thủ phạm…
Liên minh tình báo chống Đức Quốc xã ở Afghanistan
Việc phát xít Đức tấn công Liên Xô đã đưa vấn đề thành lập một liên minh chống Hitler lên chương trình nghị sự.
Sau các cuộc đàm phán giữa phái đoàn chính phủ Liên Xô và Anh, ngày 12/7/1941, hai bên đã ký kết thỏa thuận về những hành động chung và sự giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc chiến chống Đức Quốc xã.
Để phát triển thỏa thuận này, cuối tháng 7 cùng năm, chính phủ Anh đã đề nghị chính phủ Liên Xô cho phép các cơ quan tình báo của hai nước tiến hành hợp tác trong cuộc chiến chống lại các cơ quan tình báo Đức Quốc xã. Ngày 13/8, đại tá Guinness, đại diện của Cục Chiến dịch đặc biệt-SOE (Special Operations Executive), đến Moscow để đàm phán về vấn đề này, và ngày 14/8, các cuộc đàm phán về hợp tác bắt đầu. Chúng được tiến hành một cách bí mật, không có phiên dịch lẫn thư ký. Chỉ có Stalin, Molotov và Beria biết nội dung thực sự của chúng. Ngày 29/9, hai văn bản hợp tác giữa các cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô và Anh đã được ký kết.
Xét trên quan điểm tác chiến, các điều khoản chính của hai văn bản thỏa thuận đều hứa hẹn nhiều triển vọng. Các bên cam kết hỗ trợ lẫn nhau trong việc trao đổi thông tin tình báo về Đức Quốc xã và các nước chư hầu, tổ chức và thực hiện các hoạt động phá hoại, tung điệp viên vào các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng.
Hai bên cũng xác định các điều kiện hỗ trợ phong trào du kích ở các nước châu Âu bị chiếm đóng và phân bổ phạm vi hoạt động của mỗi bên: Anh được giao phụ trách Tây Âu từ Tây Ban Nha đến Na Uy và Hy Lạp, Liên Xô - Romania, Bulgaria và Phần Lan. Các vấn đề tổ chức chiến tranh du kích trên lãnh thổ Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư sẽ được thảo luận trong từng trường hợp cụ thể giữa Liên Xô và chính phủ các nước này.
Các văn bản thỏa thuận xác định đối tượng chính của hoạt động phá hoại của Anh và Liên Xô là tất cả các loại hình giao thông và công nghiệp quân sự của kẻ thù.
Các văn bản thỏa thuận dự kiến thành lập các cơ quan liên lạc tương ứng ở Moscow và London với tư cách là những bộ phận điều phối hoạt động của cơ quan tình báo hai nước.
Một ví dụ tiêu biểu về sự hợp tác như vậy trong thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại trên lãnh thổ của nước thứ ba là việc thực hiện chiến dịch "Marauders" (bọn cướp) nhằm tiêu diệt mạng lưới tình báo Đức hoạt động trong những năm chiến tranh ở Afghanistan.
Nhà tình báo Mikhail Allakhverdov.
Afghanistan được các cơ quan tình báo Đức đặc biệt quan tâm ngay từ thời thời Hoàng đế Đức. Ở đất nước phương đông này, có khoảng một triệu người xuất thân từ các nước cộng hòa Trung Á thuộc Liên Xô sinh sống dọc biên giới Liên Xô. Nhiều người trong số đó điên cuồng chống phá chính quyền Xô Viết trong những năm 1920 và 1930 và sẵn sàng cầm vũ khí trở lại ngay khi có cơ hội. Đồng thời, các nước thù địch với Liên Xô, cụ thể là Đức, Ý và Nhật Bản, tìm cách kích động các băng nhóm vũ trang phản cách mạng Basmachi Phong trào vũ trang phản cách mạng của những kẻ dân tộc chủ nghĩa ở Trung Á từ 1917-1926. Hơn nữa, sau khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, các cơ quan tình báo của các nước "trục" (Đức, Ý, Nhật) ở Afghanistan đã chuyển sang chống phá Liên Xô rất dữ dội. Tình hình trên biên giới Liên Xô-Afghanistan thực sự đáng lo ngại: lại xuất hiện nguy cơ xảy ra các cuộc tấn công của phong trào Basmachi vào lãnh thổ Liên Xô.
Từ đầu cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Mikhail Allakhverdov, một sĩ quan an ninh lão luyện được bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô tại Afghanistan.
Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan.
Mikhail Allakhverdov giữ chức vụ này đến năm 1944. Chính ông là người đã cùng với các đối tác Anh tổ chức thực hiện chiến dịch "Marauders" nhằm tiêu diệt mạng lưới gián điệp của cơ quan tình báo quân sự Đức Quốc xã Abwehr trên lãnh thổ Afghanistan trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, phía Anh tìm cách bảo đảm lợi thế cho mình trong chiến dịch và tạo tiền đề thuận lợi cho việc tiếp tục tiến hành do thám Liên Xô. Cụ thể, tình báo Anh đã cài cắm Bhagat Ram Talvar, điệp viên của mình, vào cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô ở Kabul. Bhagat Ram Talvar là nhân vật nổi bật trong phe "cánh tả" của đảng Quốc đại Ấn Độ, sống ở Afghanistan. Cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô đã kịp thời phát hiện ra ý đồ này và thông báo cho đồng minh Anh.
Mikhail Allakhverdov đã thiết lập mối quan hệ trong công việc với các đại diện của tình báo Anh tại Kabul - Trung tá Lancaster và cố vấn Hayley. Trước hết, cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ cần nhận được thông tin của người Anh về phong trào Basmachi, vì từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh chống Liên Xô, tình báo Đức lại ra sức sử dụng phong trào Basmachi ở miền Bắc Afghanistan cho mục đích riêng của mình. Ví dụ, vào tháng 9 năm 1941, Rasmus, người đứng đầu cơ quan tình báo đối ngoại Đức ở Afghanistan, đã ra lệnh cho Makhmud-bek, viên chỉ huy người Uzbekistan có ảnh hưởng lớn đối với phong trào Basmachi, thành lập một mạng lưới gián điệp và biệt kích ở cả hai bên biên giới Liên Xô-Afghanistan. Sau đó, Makhmud-bek được Abwehr giao nhiệm vụ xây dưng một cứ điểm ở thành phố Baghlan của Afghanistan để đưa gián điệp Đức vào Liên Xô và tiến hành việc tuyển mộ các điệp viên ở các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô.
Nhà tuyển mộ tình báo Liên Xô Aleksandr Korotkov.
Thông tin mà Mikhail Allakhverdov nhận được về việc cơ quan tình báo quân sự Đức Quốc xã Abwehr chuẩn bị tung vào lãnh thổ Liên Xô các nhóm biệt kích đã nhanh chóng được chuyển đến Moscow. Kết quả là tất cả các nhóm này đều bị vô hiệu hóa. Đồng thời, Mikhail Allakhverdov cũng thông báo với Trung tâm rằng tình báo Đức đang lên kế hoạch đưa các đội biệt kích được hình thành từ binh lính và sĩ quan của "Quân đoàn Turkestan" vào các nước cộng hòa Xô Viết Trung Á, trước hết là Turkmenistan. Để huấn luyện những tên biệt kích này ở Ba Lan, một cơ sở huấn luyện bí mật mang tên "Trại SS-20" đã được thành lập ở ngoại ô Wroclaw.
Cơ quan tình báo đối ngoại của Bộ Dân ủy Nội vụ ở Kabul cũng nhận được thông tin về việc Berlin yêu cầu người đứng đầu Abwehr ở Afghanistan thành lập tổ chức bí mật những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở Turkmenistan. Đồng thời, người Đức tin tưởng rằng những người Turkmen lưu vong ở Afghanistan có thể trang bị vũ khí cho 11.000 phiến quân Basmachi. Tháng 12/1941, thủ lĩnh Basmachi của Turkmenistan, Kyzyl Ayak, đã ra lệnh cho những người ủng hộ của mình chuẩn bị xâm lược các nước Trung Á vào mùa hè năm 1942. Đại sứ quán Đức ở Kabul hứa sẽ cung cấp vũ khí và ngựa cho phiến quân Basmachi.
Cơ quan tình báo đối ngoại của Liên Xô ở Kabul đã phát hiện mạng lưới gián điệp Đức ở Afghanistan và hợp tác chặt chẽ với tình báo Anh ngăn chặn hoạt động của các cơ quan tình báo Đức, Nhật và Ý trong khu vực này. Ví dụ, nhờ nỗ lực chung tình báo Liên Xô và Anh đã ngăn chặn được một cuộc đảo chính do Đức Quốc xã tổ chức và việc đưa quân Đức vào Afghanistan.
Viên chỉ huy người Uzbekistan Makhmud-bek.
Ngày 26/5/1943, theo thỏa thuận đạt được trước với Moscow, công sứ Anh tại Kabul F. Wiley đã gặp Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan yêu cầu bắt giữ các điệp viên phát xít và trục xuất các nhân viên tình báo Đức, Ý và Nhật Bản khỏi Afghanistan. Thủ tướng Afghanistan từ chối thực hiện những yêu cầu này, vì coi đó là hành vi xâm phạm chủ quyền của Afghanistan.
Đến lượt mình, ngày 8/6/1943, tại cuộc gặp với Thủ tướng Afghanistan Hashim Khan, đại sứ Liên Xô K. Mikhailov đã phản đối mạnh mẽ hoạt động thù địch của đại sứ quán Đức và Ý ở Afghanistan. Công hàm phản đối của Liên Xô đã sử dụng thông tin đáng tin cậy mà Mikhail Allakhverdov nhận được từ các điệp viên của mình, đồng thời dựa trên thông tin của tình báo Anh.
Sau khi bị đại sứ quán Anh và Liên Xô phản đối, chính phủ Afghanistan buộc phải thực hiện các yêu cầu của Anh và Liên Xô. Cảnh sát Kabul tiến hành bắt giữ hàng loạt những người lưu vong từ Trung Á. Còn đến cuối tháng 6/1943, chính quyền Afghanistan đã trao hộ chiếu cho các điệp viên phát xít để rời khỏi đất nước.
Như vậy, đến giữa năm 1943, tình báo Liên Xô ở Afghanistan đã kiểm soát hoàn toàn mọi hoạt động của cơ quan tình báo đối ngoại Đức ở nước này, ở Ấn Độ, cũng như ở các khu vực biên giới Liên Xô.
Cục trưởng Cục Tình báo đối ngoại Liên Xô Fitin đề nghị Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia Merkulov tuyển mộ Rasmus, người đứng đầu cơ quan tình báo Đức ở Afghanistan, bằng cách sử dụng các tài liệu không thể chối cãi về sự thất bại của mạng lưới gián điệp của ông ta. Tháng 12/1943, nhà tuyển mộ tình báo giàu kinh nghiệm Aleksandr Korotkov đã bay tới Kabul để làm việc với Rasmus. Trong cuộc gặp với Rasmus, Aleksandr Korotkov đã trình bày các bản mật mã mà tình báo Liên Xô thu được, cho phép giải mã tất cả thư từ của Rasmus với Berlin và bắt giữ các điệp viên Đức. Rasmus cũng được xem các hóa đơn ghi số tiền mà các điệp viên Đức được tình báo Liên Xô tuyển mộ chuyển cho phía Liên Xô. Korotkov mời Rasmus hợp tác với tình báo Liên Xô. Đáp lại, ông ta hứa sẽ suy nghĩ và một ngay sau sẽ trả lời. Tuy nhiên, Rasmus đã không có mặt tại cuộc gặp đã định và bí mật rời Kabul vài ngày sau đó.
Chiến dịch "Marauders" tiêu diệt mạng lưới tình báo Đức hoạt động trong những năm chiến tranh ở Afghanistan đã kết thúc thắng lợi.
Các tài liệu tình báo đối ngoại của Liên Xô thời kỳ đó nhấn mạnh rằng "hoạt động của cơ quan tình báo đối ngoại do Mikhail Allakhverdov lãnh đạo đã góp phần gìn giữ an ninh biên giới phía nam Liên Xô trong những năm khó khăn nhất của chiến tranh". Nhờ những nỗ lực của cơ quan tình báo đối ngoại Kabul, tất cả những mưu toan của các nước "trục" nhằm biến Afghanistan thành bàn đạp cho các hoạt động chống phá Liên Xô đều thất bại.
Ngoài ra, bằng những nỗ lực chung, cơ quan tình báo đối ngoại Liên Xô và các đại diện tình báo Anh đã tiêu diệt mạng lưới gián điệp và biệt kích của Đức và Nhật Bản ở Ấn Độ và Miến Điện. Đánh giá cao sự hỗ trợ của Liên Xô đối với các hoạt động của tình báo Anh ở Ấn Độ và Miến Điện, đến lượt mình, người Anh đã tiết lộ cho phía Liên Xô tên tuổi nhiều nhân viên của các cơ quan tình báo Đức ở Afghanistan và Trung Á, được người Đức tuyển mộ để hoạt động ở hậu phương của Liên Xô.
Các cơ quan tình báo Liên Xô và Anh cũng đã hợp tác thành công trong một số chiến dịch ở Tehran.
Lựa chọn nghiệt ngã của một điệp viên Trong nhiều năm không ai biết về số phận của nữ điệp viên Xôviết - Đại úy Maria Dobrova, người từng được đưa vào danh sách "mất tích không rõ nguyên nhân" của GRU (Cơ quan tình báo quân sự Nga). Có không ít người đã coi bà là kẻ phản bội. Báo chí Mỹ còn đổ thêm dầu vào lửa khi bịa...