Những điều cần lưu ý khi đi khám vô sinh hiếm muộn
Rất nhiều trường hợp các cặp vợ chồng kết hôn một thời gian dài, quan hệ tình dục bình thường nhưng người vợ vẫn chưa mang thai. Lúc này, cả hai mới đi khám và đa số phát hiện bất thường. Vậy thời điểm nào nên đi khám vô sinh hiếm muộn và cần khám những gì?
Có rất nhiều nguyên nhân có thể cản trở quá trình tinh trùng của nam giới di chuyển vào sâu trong âm đạo của nữ giới đến nơi trứng rụng để thụ tinh dẫn đến không thể mang thai như: tinh trùng yếu, khuyết tật, trứng không rụng hoặc rụng không đúng thời điểm và vị trí, cấu trúc cơ quan sinh dục của cả nam và nữ giới đều có những bất thường…
Vì vậy, nguyên nhân gây vô sinh hiếm muộn có thể đến từ cả nam giới và nữ giới. Chính vì vậy, sau khi kết hôn đã lâu mà chưa thể mang thai, cần nghĩ đến tình trạng vô sinh hiếm muộn và nhanh chóng đi khám tại cơ sở y tế chuyên khoa để được chẩn đoán và điều trị phù hợp.
Vậy thời điểm nào nên đi khám vô sinh hiếm muộn?
Cần nghĩ đến tình trạng vô sinh hiếm muộn khi kết hôn đã lâu mà không thể mang thai.
Các cặp vợ chồng sau kết hôn từ 6 tháng đến 12 tháng, quan hệ tình dục đều đặn, bình thường và không sử dụng biện pháp tránh thai nào mà vẫn không có con thì nên đi khám vô sinh. Đặc biệt, với những trường hợp chị em phụ nữ bắt đầu suy giảm khả năng sinh sản (trên 35 tuổi) hoặc nam giới (trên 45 tuổi) thì nên chủ động đi khám sớm sau khi kết hôn khoảng 6 tháng tại các cơ sở y tế chuyên khoa.
Nữ giới có tiền sử sảy thai từ 2 lần trở lên hoặc mắc các bệnh liên quan đến cơ quan sinh sản như lạc nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang; Phụ nữ có các dấu hiệu của vô sinh như kinh nguyệt bất thường, ra khí hư bất thường, đau tức mỗi khi quan hệ tình dục, mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai… cũng nên chủ động đi khám vô sinh hiếm muộn sớm.
2. Quy trình khám vô sinh hiếm muộn
Quy trình khám vô sinh hiếm muộn thường bao gồm 4 bước:
Bước 1: Bác sĩ hỏi bệnh và tiền sử bệnh lý của cả vợ và chồng, đồng thời tiến hành khám phụ khoa và nam khoa cho hai vợ chồng.
Đây là giai đoạn tìm hiểu để bác sĩ có thể dễ dàng xác định được những căn nguyên gây nên bệnh vô sinh hiếm muộn của các cặp vợ chồng.
Bước 2: Căn cứ vào kết quả thăm khám, bệnh nhân sẽ được bác sĩ quyết định cho đi làm những loại xét nghiệm nào (bao gồm xét nghiệm máu, siêu âm, làm tinh dịch đồ, chụp HSG nếu có nghi ngờ tổn thương tử cung – vòi trứng, xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục của cả nam và nữ, xét nghiệm nội tiết…).
Video đang HOT
Bước 3: Sau khi có kết quả thăm khám, xét nghiệm, bác sĩ đọc kết quả từ đó tư vấn hướng điều trị tiếp theo cho các cặp vợ chồng.
Bước 4: Bác sĩ đưa ra phác đồ điều trị và hẹn tái khám tùy thuộc từng nguyên nhân cụ thể của các cặp vợ chồng.
3. Khám vô sinh hiếm muộn mất bao nhiêu thời gian?
Khám vô sinh hiếm muộn tốn khá nhiều thời gian.
Bên cạnh vấn đề kinh phí thì thời gian cũng là điều mà các cặp vợ chồng cần cân nhắc trước khi đi khám vô sinh hiếm muộn bởi sẽ tốn khá nhiều thời gian.
Đối với người vợ: Do cần phải thực hiện nhiều xét nghiệm trong chu kỳ kinh nên sẽ tốn nhiều thời gian đi lại hơn.
Đối với người chồng: Xét nghiệm tinh dịch đồ được tiến hành sau khi kiêng xuất tinh từ 2-7 ngày. Nếu có vấn đề bất thường thì cũng sẽ cần khám và làm các xét nghiệm chuyên sâu khác.
4. Cần lưu ý gì khi đi khám?
Để kết quả khám được chính xác nhất, cần lưu ý:
Đối với người vợ:Đi khám sau sạch kinh 3-5 ngày, không quan hệ vợ chồng. Xét nghiệm nội tiết tố được làm vào ngày thứ 2 hoặc thứ 3 của chu kỳ kinh.
Đối với người chồng: Để kết quả xét nghiệm tinh dịch được chính xác thì cần tránh xuất tinh từ 2-7 ngày trước ngày đi khám vô sinh hiếm muộn.
Quy trình khám vô sinh hiếm muộn cần có sự kiên trì và bền bỉ, đòi hỏi rất nhiều thời gian và thậm chí là kinh phí. Do vậy, các cặp vợ chồng cần lên kế hoạch cụ thể rõ ràng trước khi đi khám vô sinh hiếm muộn.
Căng thẳng, lo âu có gây vô sinh hiếm muộn?
Bệnh nhân hiếm muộn thường gặp phải các vấn đề về stress và ngược lại, căng thẳng, lo âu trong cuộc sống hiện đại cũng góp phần gây ra tình trạng hiếm muộn.
Một thực tế được công nhận là rất khó để can thiệp trị liệu nhằm loại bỏ hoàn toàn stress. Có chăng là chúng ta sẽ sống chung với stress như thế nào, và làm gì để giảm bớt các căng thẳng, lo âu xảy ra trong quá trình điều trị.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), stress là phản ứng của cơ thể khi phải đối mặt với hoàn cảnh và áp lực vượt quá khả năng xử lý, thách thức khả năng đối phó của con người. Stress không phải là một bệnh, tuy nhiên stress có thể dẫn đến suy nhược về tâm lý, suy giảm hoạt động não bộ và từ đó suy nhược cả cơ thể.
Nói cách khác, căng thẳng là nguyên nhân gây ra các bệnh khác, ví dụ như trầm cảm, mất ngủ. Stress cũng là yếu tố gây tăng nặng cho các bệnh về tiêu hóa, tim mạch, thậm chí là ung thư. Stress cũng có thể góp phần gây ra tình trạng hiếm muộn và làm giảm hiệu quả của điều trị IVF.
Một số nội tiết phản ánh tình trạng căng thẳng như norepinephrine, cortisol, và adrenaline. Nhiều nghiên cứu khi đo trực tiếp nồng độ của các nội tiết này đều chỉ ra rằng khi nồng độ của chúng tăng lên, chất lượng noãn thu được và tỉ lệ có thai giảm đi rõ rệt. Có hai chỉ số hiện đang trở nên nóng hổi, đó là tỉ lệ duy trì điều trị và tương ứng với nó, là tỉ lệ bỏ chu kỳ. Khi người bệnh vượt qua được những khó khăn về cảm xúc sau một vài lần thất bại và kiên trì điều trị, họ sẽ sử dụng được hết tiềm năng sinh học của bản thân.
Ví dụ như việc lần lượt chuyển hết số phôi trữ đông và có thai ở lần chuyển cuối cùng - thành công sẽ không thể xảy ra nếu bỏ cuộc trước đó. Hiện khoa học đã phần nào chỉ ra được tương quan giữa stress và tỉ lệ duy trì điều trị. Đặc biệt là trên nhóm bệnh nhân tiên lượng kém, khi can thiệp để giảm mức độ stress, tỉ lệ duy trì điều trị tăng lên và tỉ lệ sinh con cộng dồn sau nhiều chu kỳ điều trị cao lên rõ rệt.
Ngược lại, tình trạng hiếm muộn thể gây ra stress. Nhiều khi, xã hội mặc định rằng không có con là một điều "bất hạnh", làm cho cả người vợ và người chồng thấy ngại ngùng, thậm chí là đau đớn xấu hổ nếu không thể có con.
Khi phải tham gia điều trị hiếm muộn, cặp vợ chồng sẽ chuyển từ trạng thái "người bình thường" thành "bệnh nhân" - tức là người có bệnh, cơ thể có khiếm khuyết, điều này làm giảm tự tin của cặp vợ chồng.
Vào viện, áp lực về chi phí không được bảo hiểm chi trả, áp lực về thời gian và quay cuồng giữa các từ ngữ chuyên môn như "vô sinh", "tinh trùng yếu", "dự trữ buồng trứng kém"... càng làm bệnh nhân stress. Về nhà, các câu hỏi của họ hàng, bạn bè càng làm họ tăng thêm áp lực. Đàn ông, vốn được xã hội coi là phái mạnh lại có những nỗi khổ riêng. Ví dụ, rất nhiều người nhầm lẫn giữa tinh trùng yếu và yếu sinh lý.
Ngoài ra, một số nghiên cứu ở Đức và Châu Âu chỉ ra rằng, đàn ông gặp khó khăn trong việc nói ra được tình trạng căng thẳng, lo âu của mình. Khi không thể chia sẻ, mức độ của tình trạng stress lại càng tăng lên.
Thêm vào đó, phải kể đến việc giảm ham muốn trong quá trình điều trị hiếm muộn, nhiều cặp vợ chồng phàn nàn về áp lực khi phải quan hệ tình dục vì mục đích sinh sản. Một số cặp vợ chồng được tư vấn nên giao hợp vào một khoảng thời gian ấn định, khi đó người nữ và đặc biệt là người nam sẽ cảm thấy rất áp lực và giảm ham muốn tình dục.
Từ kinh nghiệm lâm sàng, nhiều bác sĩ chỉ ra rằng nhóm bệnh nhân cần tập trung hỗ trợ tâm lý nhiều nhất là nhóm thất bại nhiều lần. Trong một chu kỳ, giai đoạn stress nhất là giai đoạn từ sau khi chuyển phôi đến khi thử thai. Đối với bệnh nhân thành công và sinh con sớm, gánh nặng tâm lý được gỡ bỏ.
Ngược lại, nhóm thất bại nhiều lần phải trải qua tình trạng "tàu lượn cảm xúc". Nghĩa là hi vọng rồi thất vọng, rồi lại hi vọng rồi thất vọng... vòng quay cứ lặp đi lặp lại như vậy và những tổn thương về tâm lý của người bệnh là không thể chối bỏ.
Bác sĩ tư vấn, thăm khám cho bệnh nhân điều trị vô sinh, hiếm muộn.
Một số hướng can thiệp nhằm giảm stress cho bệnh nhân IVF được nêu ra như sau:
1. Chăm sóc tích hợp
Người bệnh hiếm muộn thường né tránh việc tìm đến chuyên gia tâm lý. Do đó, y bác sĩ Hỗ trợ sinh sản ngoài việc điều trị hiếm muộn sẽ phải kiêm thêm cả phần chăm sóc về tâm lý cho bệnh nhân của mình.
2. Hợp tác trong chăm sóc
Nhóm điều trị hiếm muộn sẽ phải bao gồm cả bác sĩ lâm sàng, điều dưỡng, lab và thêm vào đó là chuyên viên tâm lý, chuyên viên dinh dưỡng, huấn luyện viên yoga và thể chất... Tất cả đồng thuận và cùng nhau hợp tác với nhau để điều trị hiếm muộn và chăm sóc tâm lý, thể chất, dinh dưỡng cho bệnh nhân.
3. Liệu pháp nhận thức
Đây là can thiệp về nhận thức, phân tích những suy nghĩ tiêu cực của người bệnh và "sửa lỗi nhận thức". Ví dụ: Tôi thất bại rồi, tôi bỏ cuộc thôi. => Tôi đã cổ hết sức rồi, chưa được thì nghỉ ngơi rồi cố tiếp, vẫn còn hi vọng. Đây là hướng tiếp cận quan trọng và được chỉ ra có hiệu quả cao.
Đặc biệt, bác sĩ và nhân viên y tế nên tránh nói "Anh/chị đừng căng thẳng quá", người nghe sẽ rất bối rối khi nhận được lời khuyên như thế này, vì họ không hề muốn bị stress và câu hỏi phải làm như thế nào để giảm stress thì vẫn chưa được trả lời.
Thêm vào đó, chính những câu nói như vậy, vô tình sẽ làm bệnh nhân nghĩ có thể chính việc mình stress gây ra điều trị thất bại, tuy điều này có thể đúng nhưng việc bệnh nhân tự kết tội bản thân không giải quyết được gì cả.
4. Y học hành vi
Đây là việc thay đổi các hành vi để giảm stress và nâng cao chất lượng cuộc sống, ví dụ chú ý dinh dưỡng, giải trí, đi massage, yoga hoặc nói ra, giải tỏa được stress của mình với cộng đồng xung quanh.
Mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể (body and mind) vô cùng phức tạp nhưng cũng rất thú vị. Hiện nay, mặc dù với rất nhiều tiến bộ của y học, mối quan hệ giữa cơ thể và tâm trí vẫn còn có nhiều câu hỏi bỏ ngỏ. Cũng như vậy, tương quan giữa stress và IVF cũng vẫn có nhiều vấn đề chúng ta phải nghiên cứu thêm. Hiểu biết và các can thiệp ứng dụng vào mối quan hệ này có thể đem lại hiệu quả rõ rệt trong điều trị hiếm muộn, nâng cao chất lượng trải nghiệm, tăng thêm chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Bác sĩ sản khoa tiết lộ lý do cần làm xét nghiệm trong ngày thứ 2 của chu kỳ kinh nguyệt khi đi khám vô sinh hiếm muộn Khi khám hiếm muộn, được chỉ định làm xét nghiệm ngày thứ 2 của chu kỳ kinh nguyệt nhiều chị em cảm thấy rất bỡ ngỡ vì rõ ràng mình vẫn đang có kinh nguyệt. Những cặp vợ chồng dù chung sống hạnh phúc, quan hệ tình dục bình thường và không dùng biện pháp tránh thai nhưng sau hơn 12 tháng mà...