Những điều cần biết về ứng dụng của trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực ngân hàng
Chatbots cho dịch vụ khách hàng; phát hiện gian lận và chống rửa tiền; trợ lý trí tuệ nhân tạo (AI) để đầu tư là 3 ứng dụng của AI sẽ được sử dụng nhiều hơn trong hoạt động của các ngân hàng hiện nay.
Đặc biệt, nhờ triển khai 3 ứng dụng này trong phân tích dữ liệu của các giao dịch trong quá khứ và hiện tại hành vi điển hình của khách hàng có thể được ‘lọc’ để phát hiện ra những vấn đề bất thường…
Ảnh minh họa.
Theo nhóm nghiên cứu ThS. Lê Thị Anh Quyên và ThS. Trần Nguyên Sa – Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hiện nay, 3 ứng dụng của AI được sử dụng nhiều hơn trong hoạt động của ngân hàng gồm: Chatbots cho dịch vụ khách hàng; phát hiện gian lận và chống rửa tiền; trợ lý AI để đầu tư.
Cụ thể, đối với ứng dụng Chatbots cho dịch vụ khách hàng. Đây được xem là ứng dụng đầu tiên và là hình thức dễ thấy nhất, có sức ảnh hưởng của AI được áp dụng trong hoạt động của ngân hàng mà không cần đến sự can thiệp của nhân viên ngân hàng. Với ứng dụng này, khách hàng không cần phải đến các ngân hàng để truy vấn thông tin và tìm hiểu các dịch vụ bổ sung khác.
Chatbots đã được chứng minh hiệu quả bởi một số ngân hàng hiện đang sử dụng công nghệ này. Thực tế cho thấy, khách hàng sẽ cảm thấy “tẻ nhạt” khi gọi điện hoặc gửi email cho ngân hàng trong trường hợp truy vấn thông tin nhưng họ thấy rất thuận tiện để trả lời “Xin chào” bởi một chatbot trên website của ngân hàng.
Cuộc trò chuyện hiệu quả, có hệ thống và chính xác sẽ mang đến dịch vụ khách hàng tốt hơn. Các trợ lý dựa trên AI nhận thức được các mẫu khách hàng để từ đó, có thể thu hút khách hàng vào những thời điểm thích hợp, chẳng hạn như khi họ ở trên website của ngân hàng hoặc ứng dụng dành cho thiết bị di động…
Về ứng dụng phát hiện gian lận và chống rửa tiền, theo báo cáo vừa được công bố gần đây bởi McAfee cho thấy, trong năm 2018, nhiều vụ việc gian lận trong lĩnh vực tài chính đã được phát hiện trên toàn cầu với tổng số tiền lên đến 600 tỷ USD.
Để ngăn chặn các hành vi gian lận và rửa tiền, các ngân hàng đang gấp rút chuyển đổi và thích ứng công nghệ để chống lại các mối đe dọa, gian lận từ bên ngoài. Các giải pháp kích hoạt AI và các mô hình tài chính tiên tiến mới sẽ giúp các ngân hàng xác định, phân tích dòng tiền trong thời gian thực và phát hiện các giao dịch gian lận có thể dừng lại ngay khi chúng được phát hiện.
Hiện nay, việc ứng dụng AI trong phân tích dữ liệu của các giao dịch trong quá khứ và hiện tại, hành vi điển hình của khách hàng có thể được “lọc” để phát hiện ra những vấn đề bất thường. Từ đó, có thể ngăn ngừa được các giao dịch phạm pháp hoặc có thêm xác nhận từ khách hàng được yêu cầu trước khi giao dịch có thể tiến hành hay không.
Trong khi đó, đối với ứng dụng trợ lý AI để đầu tư. Hiện nay, hệ thống ngân hàng đang “đi sâu” vào thế giới AI bằng cách sử dụng hệ thống thông minh, để giúp đưa ra quyết định đầu tư và hỗ trợ nghiên cứu ngân hàng đầu tư. Chẳng hạn như: Ngân hàng UBS (Thụy Sĩ) hay Ngân hàng ING (Hà Lan) đang ứng dụng hệ thống AI rà soát thị trường để thông báo cho các hệ thống giao dịch thuật toán của họ.
Video đang HOT
Thông qua cá nhân hóa, chatbots và mô hình khách hàng cụ thể, những robot tư vấn này có thể cung cấp những “tư vấn chất lượng cao” về các quyết định đầu tư và sẵn sàng cung cấp bất cứ khi nào khách hàng cần.
Hiện nay, AI trong lĩnh vực ngân hàng đang tiếp tục chuyển đổi để cung cấp mức giá trị lớn hơn cho khách hàng, giảm rủi ro và tăng cơ hội làm công cụ tài chính cho nền kinh tế hiện đại của chúng ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả ứng dụng của AI mang lại cho các ngân hàng, thì nhóm nghiên cứu ThS. Lê Thị Anh Quyên và ThS. Trần Nguyên Sa lo ngại rằng, khi AI tiếp tục trở nên tiên tiến hơn, những công việc liên quan đến sự lặp lại của nhân viên ngân hàng, rất có thể bị AI sẽ thay thế hoàn toàn cho con người, lúc đó kéo theo tình trạng thất nghiệp, an sinh xã hội, bất ổn kinh tế, chính trị…
Ngoài ra, AI phát triển cũng cần đến sự đồng thuận sử dụng AI từ phía người tiêu dùng, xu hướng này phát triển mạnh từ năm 2016 cho đến nay. Do vậy, trong quá trình ứng dụng AI vào hoạt động kinh doanh, các ngân hàng Việt Nam cần cân nhắc, dựa vào tình hình sức khỏe tài chính, khả năng đầu tư về cơ sở hạ tầng, công nghệ… của mình để có lộ trình, bước đi thích hợp.
Theo tài chính
Chuyển hướng đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực cách mạng 4.0
Cuộc cách mang công nghiệp lần thứ 4 đã và đang phát triển một cách hết sức nhanh chóng, với nền tảng công nghệ số tích hợp, công nghệ thông minh: tự động hóa, internet kết nối vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Blockchain...
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng chỉ ra nhiều rào cản mà việc đào tạo nguồn nhân lực ICT chất lượng cao cần phải thay đổi.
Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, cuộc cạnh tranh trong thời đại 4.0 là cuộc cạnh tranh về nhân lực. Nước nào có nguồn nhân lực tốt, đáp ứng nhanh với nhu cầu thay đổi của công nghệ, dùng công nghệ để giải quyết tốt các bài toán của nước mình, của nhân loại thì nước đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Đứng trước yêu cầu đó, ngành giáo dục, đặc biệt là các trường đại học, cũng đang có những chuyển hướng mạnh mẽ, với sự vào cuộc trực tiếp của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nhân lực sẽ là một lợi thế Việt Nam nếu chúng ta giải quyết tốt bài toán cung cầu nhân lực giữa nhà trường và thị trường, đổi mới đào tạo để đáp ứng sự thay đổi của thời đại". Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Mạnh Hùng
Mở ngành học mới
Mùa tuyển sinh năm 2019 ghi dấu sự ra đời của hàng loạt ngành học mới của các trường, từ khối kinh tế đến kỹ thuật, công nghệ, thậm chí cả các ngành xã hội. Điểm chung của các ngành học mới này là đều hướng tới hội nhập toàn cầu và ứng dụng công nghệ hiện đại như IoT, Al, Big data.. đáp ứng nhu cầu nhân lực cho cách mạng công nghiệp 4.0.
Lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện ngành học Robot và trí tuệ nhân tạo khi Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh công bố sẽ tuyển sinh đào tạo ngành học này trong năm 2019.
Theo ông Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, robot và trí tuệ nhân tạo sẽ chiếm lĩnh toàn bộ thị trường lao động trên thế giới, thay thế rất nhiều ngành. Đây là bước đi đầu tiên của trường để đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên số. Ngành Robot và trí tuệ nhân tạo có đặc điểm tính liên ngành cao, tích hợp kiến thức nhiều lĩnh vực, là ngành học xuyên ngành vì có sự phối hợp của ba khoa là Cơ khí, Điện-điện tử và Công nghệ thông tin. Từ đó giúp sinh viên có kỹ năng không chỉ của một ngành mà tích hợp nhiều ngành, là yếu tố quan trọng nhất mà cách mạng 4.0 đòi hỏi ở người lao động. "Đây là bước đột phá trong tư duy về ngành nghề ở bậc đại học trong kỷ nguyên số", ông Dũng chia sẻ.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cùng tham quan Triển lãm "Phát triển nguồn nhân lực CNTT-TT (ICT) trình độ cao: Gắn kết cơ sở giáo dục đại học-doanh nghiệp".
Cũng do có tính liên ngành nên ngành Robot và trí tuệ nhân tạo sẽ không thuộc một khoa nào cụ thể của trường. Là ngành học mới và đào tạo phức tạp nên Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh chỉ tuyển 20 chỉ tiêu, dành cho những học sinh giỏi, có điểm thi THPT quốc gia đạt 24 điểm trở lên ở khối A, A1 và ưu tiên học sinh trường chuyên. Sinh viên theo học sẽ được miễn học phí hoàn toàn, ngành được đào tạo bằng tiếng Anh do giáo viên Việt Nam và quốc tế giảng dạy.
Đại học Kinh tế quốc dân (Hà Nội) cũng công bố mở tới 7 chương trình học mới trong năm 2019, gồm: Phân tích kinh doanh, Khoa học dữ liệu trong kinh tế và kinh doanh, Đầu tư tài chính, Công nghệ tài chính, Quản trị kinh doanh điều hành thông minh, Quản trị chất lượng và đổi mới, Quản trị khách sạn quốc tế. Tất cả các chương trình mới này đều mang tính chất liên thông quốc tế và được giảng dạy bằng tiếng Anh.
Giáo sư Trần Thọ Đạt (Hiệu trưởng Đại học Kinh tế quốc dân) chia sẻ, đây là các ngành học mang tính liên ngành, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong thời đại cách mạng 4.0 và kinh tế số hiện nay. Các ngành mới này được nhà trường xây dựng dựa trên phân tích nhu cầu của thị trường lao động, tham khảo ý kiến của các chuyên gia và các trường đại học đối tác. Trường cũng tổ chức các buổi tọa đàm riêng cho từng ngành, mời đại diện các doanh nghiệp đến để trao đổi, góp ý.
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) cũng mở mới ba ngành học xã hội hóa chất lượng cao là Báo chí, Quản lý thông tin và Khoa học quản lý. Các ngành học này đều hướng tới hội nhập quốc tế với chương trình hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin và cam kết về trình độ cao về ngoại ngữ.
Đẩy mạnh gắn kết ba nhà trong đào tạo
Không chỉ xây dựng các chương trình đào tạo mới, các trường đại học cũng đang đẩy mạnh việc kết hợp với các doanh nghiệp trong đào tạo để tăng thời lượng thực hành, đưa đào tạo lý thuyết bắt kịp thực tiễn yêu cầu lao động, nhất là trong bối cảnh công nghệ thay đổi từng ngày. Đặc biệt, việc đẩy mạnh gắn kết với doanh nghiệp không chỉ là chủ trương của các đại học mà còn có sự vào cuộc của cả Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đào tạo nguồn nhân lực ICT chất lượng cao.
Theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ, việc gắn kết nhà trường và doanh nghiệp là vấn đề không mới và đã có nhiều sự hợp tác trong thời gian qua, nhưng chủ yếu mới là sự hỗ trợ của doanh nghiệp cho nhà trường như cấp học bổng, giúp sinh viên thực tập...
Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế đang chuyển sang số hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là một trong ba khâu đột phá để phát triển đất nước, thì vấn đề kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường càng phải trở thành nhu cầu tự thân, vì sự phát triển chung. Các trường cung cấp nguồn nhân lực, các doanh nghiệp nhìn trường như các bạn hàng, hợp tác cùng có lợi.
"Chưa khi nào khoa học công nghệ thay đổi nhanh như hiện nay. Bởi vậy, chương trình đào tạo của các trường phải thiết kế theo nhu cầu và tính đến sự thay đổi. Sinh viên phải được nhúng mình vào hoạt động của các doanh nghiệp", ông Nhạ nói.
Khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong việc đưa đào tạo đại học gắn chặt với thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh của cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng ông Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, để sự kết hợp này có hiệu quả hơn, Nhà nước hỗ trợ cơ chế chính sách để khơi thông hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Các chính sách cụ thể như ban hành quy định về cơ chế liên kết đào tạo nhà trường-doanh nghiệp; cơ chế giải ngân kinh phí đầu tư khoa học kỹ thuật; cơ chế hỗ trợ, ưu tiên cho các doanh nghiệp có hoạt động hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học; cơ chế đặt hàng trong đào tạo và nghiên cứu khoa học...
Trước ý kiến này, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ khẳng định, Bộ và các bộ ngành liên quan sẽ có trách nhiệm đồng hành với doanh nghiệp, nhà trường, rà soát chính sách, tham mưu cho Chính phủ, thay đổi chính sách trong thẩm quyền để đảm bảo về cơ chế cho hoạt động gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp được thuận lợi, hiệu quả. Ông Nhạ cũng bày tỏ sự tin tưởng khi có sự gắn kết chặt chẽ ba bên: nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp, sẽ đẩy mạnh hơn nữa chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.
Phát triển đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học
Song song với hoạt động đào tạo đại học, đẩy mạnh đào tạo sau đại học và phát triển nghiên cứu trong các nhà trường cũng là một chủ trương lớn của Bộ Giáo dục và Đạo trong tình hình mới. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức một loạt hội nghị, hội thảo, tọa đàm liên quan đến vấn đề này để tìm hướng phát triển hơn nữa việc đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát triển nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực.
Hiện Bộ đang xây dựng nhiều văn bản liên quan đến vấn đề này, trong đó đặc biệt chú trọng tới vấn đề xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, xây dựng các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo cho giảng viên, sinh viên trong các nhà trường.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, hiện trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 nhóm nghiên cứu, gần gấp đôi so với con số 491 nhóm trong năm học 2016-2017. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các nhóm nghiên cứu thì số lượng công bố quốc tế của Việt Nam cũng có những chuyển biến đột phá về chất lượng. Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả nước hết sức khiêm tốn, chỉ trên 2.300 bài, gồm cả công bố của các viện nghiên cứu và các trường đại học. Nếu tính trong 5 năm, từ 2011 đến 2015, Việt Nam mới có trên 10.000 bài. Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập thuộc Đại học Duy Tân, tính từ năm 2017 đến tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học hàng đầu Việt Nam đã là trên 10.500 bài, vượt cả con số bài công bố quốc tế của cả nước trong 5 năm cộng lại trước đó.
"Các trường có kết quả nghiên cứu tốt chủ yếu do hình thành được các nhóm nghiên cứu, nhưng là sự hình thành tự phát, chưa có cơ chế chính sách cho vấn đề này. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế nhóm nghiên cứu mạnh có ý nghĩa rất lớn, như tổ bám của các hoạt động nghiên cứu trong nhà trường," Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh.
Chia sẻ về những đổi mới trong định hướng đào tạo đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các trường đại học nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực cho cách mạng công nghiệp 4.0, phó giáo sư Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lạc quan cho rằng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội rất lớn trở thành trung tâm nghiên cứu phát triển của khu vực. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho rằng: "Nhân lực sẽ là một lợi thế Việt Nam nếu chúng ta giải quyết tốt bài toán cung cầu nhân lực giữa nhà trường và thị trường, đổi mới đào tạo để đáp ứng sự thay đổi của thời đại".
Theo ngày nay
Một chương trình bot có thể tự động sửa lỗi phần mềm với chất lượng ngang với con người Các bản vá lỗi phần mềm mà chương trình bot đó tạo ra đã được các nhà kiểm duyệt trên GitHub chấp nhận đưa vào code base, khi họ tưởng rằng nó do một nhà phát triển con người tạo nên. Các chương trình máy tính hiện đại ngày nay đã trở nên phức tạp đến mức việc nó phát sinh lỗi trong...