Những công trình nghiên cứu về HIV cơ sở để hoạch định chính sách và can thiệp trong phòng, chống bệnh
Theo ThS. Võ Hải Sơn (Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế), cả nước hiện có 230.000-250.000 người nhiễm HIV, nam giới chiếm đa phần và đều ở độ tuổi trẻ. Trên 60% số người nhiễm thuộc 19 tỉnh phía nam, khác với bản đồ dịch cách đây hơn 1 thập kỷ khi tập trung chủ yếu ở miền Bắc.
Cứ mỗi khi có một dịch bệnh mới hoành hành, bên cạnh các biện pháp triển khai trước mắt nhằm kiểm soát và hạn chế tác động của nó, các nhà khoa học toàn cầu lại thầm lặng bắt đầu một cuộc chạy đua tìm ra vaccine, thuốc chữa bệnh, các phương thức dự báo dịch và tổ chức hệ thống y tế cho tương lai. Ngay cả khi một dịch bệnh mà con người tưởng chừng như đã chung sống với nó, thì các nhà khoa học vẫn không ngừng tìm kiếm những biện pháp mới, để kiểm soát bệnh tốt hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống của những người không may trực tiếp bị ảnh hưởng của bệnh. Câu chuyện nghiên cứu khoa học của HIV ở toàn cầu và Việt Nam cũng trải qua các giai đoạn như vậy.
Các nhà khoa học, nhà quản lý tham dự buổi tọa đàm tại hội thảo khoa học về HIV ở Việt Nam
Tại hội thảo khoa học “Một số nghiên cứu tiên phong về HIV ở Việt Nam: Hướng tới kết thúc đại dịch AIDS” diễn ra tại Trường Đại học Y Hà Nội, các nhà khoa học Việt Nam phối hợp cùng các chuyên gia của nhiều nước đã đưa ra những bằng chứng khoa học giúp cho Bộ Y tế đưa ra các quyết đáp chuẩn xác trong hoạch định chính sách, cũng như các hướng dẫn kỹ thuật và quản lý điều trị, tiến tới mục tiêu kết thúc căn bệnh thế kỷ ở Việt Nam vào năm 2030.
PGS.TS. Lê Minh Giang – Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất -HIV phát biểu khai mạc hội thảo
Theo ThS. Võ Hải Sơn (Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế), cả nước hiện có 230.000-250.000 người nhiễm HIV, nam giới chiếm đa phần và đều ở độ tuổi trẻ. Trên 60% số người nhiễm thuộc 19 tỉnh phía nam, khác với bản đồ dịch cách đây hơn 1 thập kỷ khi tập trung chủ yếu ở miền Bắc.
Đặc biệt, các trường hợp phát hiện mới tăng nhanh ở cộng đồng những người đồng tính nam (MSM), đẩy tỷ lệ hiện nhiễm lên khoảng 12% trong nhóm này, cao hơn các nhóm khác trong quần thể. Tình hình này đòi hỏi một mặt tiếp tục triển khai các biện pháp giảm nhanh dịch HIV ở nhóm tiêm chích ma túy, mặt khác có những giải pháp căn cơ với nhóm MSM.
Nhiều nhà khoa học nước ngoài tham gia nghiên cứu về HIV ở Việt Nam cùng các nhà khoa học trong nước
Đối với nhóm tiêm chích ma túy, một trong những giải pháp được GS. Todd Korthuis (Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon) trình bày với tiêu đề “Sử dụng Buprenorphine/naloxone làm giảm tình trạng nghiện và tăng cường hiệu quả điều trị HIV tại Việt Nam (BRAVO): Kết quả từ nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên.” Đây là kết quả nghiên cứu mà ông và PGS.TS. Lê Minh Giang – Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất -HIV, cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam tiến hành nhiều năm qua.
Video đang HOT
Các đại biểu tham dự hội thảo
Theo GS. Todd Korthuis, bên cạnh triển khai mở rộng methadone cần phải lồng ghép điều trị buprenorphine, một thuốc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện khác, ngày trong các cơ sở điều trị HIV. Lý do là vì tỉ lệ sử dụng chất gây nghiện cao tại các phòng khám HIV ở nhiều quốc gia, nhưng tiếp cận điều trị hạn chế. Với 6 điểm nghiên cứu ở Hà Nội, Bắc Giang, Thanh Hóa, các nhà khoa học đã rút ra kết luận: Việc lồng ghép điều trị buprenorphine/naloxone tại phòng khám HIV là khả thi.
Cả buprenorphine và methadone đều cải thiện tỷ lệ bắt đầu điều trị, tuân thủ điều trị, tái khám ARV và ức chế virus HIV; đều có tác dụng giảm sử dụng heroin. Đặc biệt, ưu thế của buprenorphine là thuốc viên, dễ sử dụng và người dùng không phải hàng ngày đến uống như với methadone, tiết kiệm và chủ động được thời gian.
Các nhà nghiên cứu tham gia buổi tọa đàm cuối hội thảo
Kết quả nghiên cứu về “Tương tác thuốc methadone và thuốc điều trị HIV (NVP/EFV) trên bệnh nhân nghiện ma túy nhiễm HIV bằng phương pháp đánh giá dược động học quần thể” do GS. TS. Gavin Bart – Trưởng khoa Y học nghiện, Hệ thống Y tế hạt Hennepin, Đại học Minnesota – cùng TS. Jim Hodges, PGS. TS. Lê Minh Giang, Ths. Hoàng Yến và các cộng sự tiến hành cho thấy việc uống song hành thuốc điều trị HIV làm tăng đào thải methadone gần 3 lần và mức độ đào thải chịu sự chi phối của các yếu tố kiểu hình gen xuất hiện ở nhiều nhóm trong cộng đồng.
Phát hiện này rất quan trọng vì nó cho thấy bệnh nhân vừa nghiện chất dạng thuốc phiện vừa nhiễm HIV gặp thách thức trong điều trị cả hai bệnh cùng một lúc. Do đó việc thí điểm điều trị buprenorphine của Bộ Y tế hiện nay là một hướng đi đúng, cần nhanh chóng mở rộng ra toàn quốc.
Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu của Đại học North Carolnia (William Miller, Irving Hoffman, Vivian Go, và Trần Việt Hà) phối hợp cùng Bộ Y tế và các cơ sở y tế ở Thái Nguyên triển khai nghiên cứu “Lồng ghép điều trị và dự phòng cho người chích ma túy: Nghiên cứu khởi đầu cho một thử nghiệm ngẫu nhiên dự phòng HIV dựa vào mạng lưới so sánh một chương trình can thiệp lồng ghép gồm hỗ trợ điều trị kháng vi rút với chương trình điều trị tiêu chuẩn” (HPTN 074).
Các nhà khoa học, nhà quản lý mong muốn làm thế nào để các kết quả nghiên cứu nhanh chóng chuyển thành các can thiệp có hiệu quả ở Việt Nam
Theo BS. Trần Việt Hà, nghiên cứu so sánh nhóm nhận thêm can thiệp lồng ghép cán bộ quản lý trường hợp và tư vấn tâm lý xã hội (SNaP) và nhóm nhận dịch vụ điều trị thông thường cho thấy: Tỷ lệ điều trị ARV và ức chế tải lượng virus tăng gần gấp đôi; tỷ lệ điều trị methadone tăng lên; tỷ lệ tử vong giảm trên 50%.
Đặc biệt, không có ca nhiễm HIV mới trong nhóm can thiệp bạn chích của người tham gia chỉ số. Nghiên cứu này cho thấy, bên cạnh các biện pháp điều trị bằng thuốc như buprenorphine hay methadone, người tiêm chích ma túy nhiễm HIV rất cần các can thiệp hỗ trợ tâm lý xã hội và can thiệp tại cơ sở y tế giúp họ nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sẵn có. Từ năm nay, các can thiệp SNaP sẽ được mở rộng ở 10 tỉnh thành phố trên cả nước nhằm đánh giá hiệu quả mở rộng của can thiệp ở 42 cơ sở điều trị HIV.
Hai báo cáo khoa học về tỷ lệ nhiễm mới HIV ở nhóm MSM ở Hà Nội của TS. Bùi Thị Minh Hảo từ Trung Tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất – HIV và về thực trạng sử dụng chất ma túy khi quan hệ tình dục (chemsex) trong nhóm MSM của ông Đoàn Thanh Tùng từ Doanh nghiệp xã hội Hải Đăng (một tổ chức của cộng đồng MSM) cho thêm thông tin về bức tranh về dịch HIV ở nhóm MSM.
Đó là tỷ lệ nhiễm mới rất cao, cứ một năm qua đi nếu không có can thiệp thì 7 trong số 100 người MSM ở Hà Nội sẽ nhiễm HIV (ước tính quần thể MSM ở Hà Nội là khoảng 35 ngàn người). Đó là việc sử dụng ma túy khi quan hệ tình dục nhóm (còn được biết đến trong cộng đồng MSM là highfun) là phổ biến và trong bối cảnh quan hệ tình dục như vậy các cá nhân thường không sử dụng các biện pháp an toàn hoặc quên không sử dụng thuốc dự phòng phơi nhiễm HIV (PrEP).
Mặc dù nghiên cứu của TS. Bùi Thị Minh Hảo cho thấy việc tiếp cận và tuân thủ uống thuốc PrEP ngày càng tốt hơn, nhưng việc sử dụng ma túy ở nhóm MSM sẽ là một thách thức lớn cho việc phòng chống HIV trong nhóm này.
Trong bối cảnh đó, một đại diện khác của Trung Tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất – HIV, TS. Nguyễn Thu Trang đã mang đến hội thảo một công trình ý nghĩa: “Thí điểm can thiệp dựa trên bằng chứng giảm sử dụng methamphetamine tại Việt Nam.”
Các nhà khoa học trong nước và quốc tế cùng nhau trao đổi về các kết quả nghiên cứu
Báo cáo viên kết luận: các mô hình can thiệp làm giảm sử dụng cả methamphetamine, heroin và cải thiện sức khỏe tâm thần và mức độ tự tin kiểm soát sử dụng methamphetamine. Tin nhắn SMS có thể giúp duy trì giảm sử dụng chất. TS. Trang cho biết tính khả thi của can thiệp thể hiện ở chỗ tỷ lệ bệnh nhân duy trì trong can thiệp cao. Kết quả này sẽ hỗ trợ Bộ Y tế xây dựng hướng dẫn triển khai để mở rộng can thiệp ATS tại các cơ sở điều trị methadone cũng như ở các tổ chức cộng đồng của người đồng tình nam trên toàn quốc.
PGS.TS. Phạm Đức Mạnh – Phó Cục trưởng Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) nhấn mạnh những kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo về Lạm dụng chất – HIV nói riêng và các nghiên cứu trình bày ở hội thảo là những bằng chứng khoa học để làm cơ sở cho Bộ Y tế xây dựng chính sách và các hướng dẫn kỹ thuật trong phòng, chống HIV/AIDS.
“Những nghiên cứu của Trung tâm về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Suboxone, hay về tỷ lệ nhiễm mới HIV của nhóm nam đồng tính ở Hà Nội đã tạo căn cứ pháp lý để mở rộng các dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu mở rộng các can thiệp phòng, chống HIV trên toàn quốc. Điều này đáp ứng mong đợi của các đại biểu tham dự hội thảo rằng các kết quả nghiên cứu nhanh chóng chuyển thành các can thiệp có hiệu quả ở Việt Nam” – PGS.TS. Phạm Đức Mạnh khẳng định.
Theo viettimes
Nghe chuyên gia nói điều này: Bạn sẽ từ bỏ thực dưỡng ngay lập tức
GS.TS Lê Thị Hương - Phụ trách Trung tâm Dinh dưỡng lâm sàng, Bệnh viện K; Trưởng bộ môn Dinh dưỡng An toàn thực phẩm (Trường Đại học Y Hà Nội) cho rằng ăn uống kiêng khem hay nhịn đói bỏ tế bào ung thư là vô lý và phản khoa học.
Thực dưỡng là chế độ ăn kiêng khem và vô lý.
Mới đây, một bệnh nhân bị đái tháo đường tuyp 2 đã bỏ thuốc điều trị và chuyển sang ăn thực dưỡng. Kết quả khiến người bệnh suy kiệt và tử vong.
Thực dưỡng trong điều trị ung thư đã trở thành trào lưu khiến nhiều người sau khi bị bệnh ung thư đã bỏ bệnh viện về nhà để ăn uống kiêng khem chữa ung thư.
Bác sĩ Nguyễn Triệu Vũ - trưởng khoa Ung bướu, Bệnh viện quận Thủ Đức, TP.HCM cho biết anh gặp nhiều bệnh nhân khi nghe nói tới bệnh ung thư, họ từ chối điều trị ngay và về nhà ăn uống kiêng khem, 2,3 tháng sau quay trở lại bệnh viện trong tình trạng suy kiệt nặng thậm chí tử vong không phải do ung thư mà do suy kiệt cơ thể.
Kiêng thịt, mỡ hay các chất đạm là sai lầm trong chế độ ăn uống, theo bác sĩ Vũ protein và chất béo là thành phần phải có trong cấu tạo cơ thể, các cơ quan quan trọng như tim, gan, phổi... đều được tạo thành từ protein và chất béo, do đó chứng ta không nên quá sợ và hạn chế quá mức các chất này.
Các loại acid béo thiết yếu omega 3, omega 6 rất tốt cho tim, mắt, não... và chỉ có được qua vài loại thực phẩm như cá, dầu ô liu, đầu đậu nành... do đó nếu quá hạn chế thịt, dầu mỡ sẽ dẫn đến mất cân bằng dinh dưỡng, suy dinh dưỡng, suy giảm hệ miễn dịch... có thể dễ bị nhiễm bệnh hơn.
Chế độ ăn thực dưỡng, bác sĩ Vũ cho biết, đây thực chất chỉ là cách ăn uống và dưỡng sinh, mặc dù có nhiều lý luận cao siêu nhưng đó là do những người theo trường phái này tự nghĩ ra và chưa có cơ sở khoa học.
Hiện nay thực dưỡng đang được quảng cáo rầm rộ có thể chữa khỏi bệnh ung thư nhưng tính xác thực của các nhân vật đó còn bỏ ngỏ và rất hoài nghi. Hiện tại chưa có nghiên cứu nào chứng minh thực dưỡng có hiệu quả phòng ngừa hoặc điều trị bệnh, nhất là bệnh ung thư.
GS.TS Lê Thị Hương - cũng nhấn mạnh phải khẳng định là không thể phân tách rạch ròi thức ăn nào là dành cho tế bào khỏe mạnh, thức ăn nào là dành cho tế bào ung thư. Điều này đồng nghĩa với việc lựa chọn cách ăn kiêng khem thái quá, "quan điểm để tế bào ung thư chết đói" là vô lý và phản khoa học.
Có một thực trạng hiện nay là các bệnh nhân ung thư thường lựa chọn chế độ ăn kiêng khem một cách cực đoan, vì lo sợ rằng nếu nạp nhiều chất dinh dưỡng vào cơ thể sẽ "vỗ béo" tế bào ung thư và khiến bệnh tình phát triển nhanh hơn. Thậm chí, không ít bệnh nhân ung thư còn nghĩ rằng, với cách tiết thực như vậy có thể ép chết tế bào ung thư và mình có thể khỏi bệnh.
Quan niệm sai lầm về dinh dưỡng này được cổ súy trên các trang mạng xã hội, đáng tiếc là không ít những kênh online bán thực phẩm ăn kiêng, đồ thực dưỡng bám vào tâm lý này của người bệnh ung thư mà đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khoa học.
GS Hương cho rằng trong cơ thể của bệnh nhân ung thư cùng tồn tại song hành cả tế bào ung thư và tế bào khỏe mạnh, chúng đều tồn tại và phát triển bằng các nguồn thực phẩm mà chúng ta nạp vào cơ thể.
Hiểu một cách đơn giản bất kì loại dưỡng chất, nguồn năng lượng nào nuôi sống chúng ta thì cũng nuôi sống tế bào ung thư. Việc kiêng khem các loại thực phẩm giàu đạm, protein ..... chỉ ăn thực dưỡng, ăn chay trường mà nghĩ rằng nó có thể giết chết tế bào ung thư và khỏi bệnh là suy nghĩ hoàn toàn sai lầm và phản khoa học.
Theo infonet
Cha mẹ nghĩ con béo mới khoẻ, bác sĩ nói "trẻ ít bệnh mới quan trọng" Dinh dưỡng cho con trẻ luôn là vấn đề nóng hổi được các bậc phụ huynh đặc biệt quan tâm. Thực tế có rất nhiều cha mẹ quan niệm con béo mới là khoẻ, là tốt, nhưng giới chuyên môn thì cho rằng không hoàn toàn là như vậy. Con mũm mĩm, bố mẹ mới hài lòng PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hà -...