Những chuyện ly kỳ tại kho báu “chôn sống trinh nữ” để giữ của
Người dân Vân Côn (Hoài Đức, Hà Nội) vẫn cung kính gọi miếu thờ ấy bằng cái tên quán Bạch Tuyết. Chẳng ai biết quán Bạch Tuyết có từ bao giờ, chỉ biết đến giờ người ta vẫn còn truyền tai nhau những câu chuyện ly kỳ về nguồn gốc ngôi miếu và những điều kỳ lạ xảy ra.
Chôn sống trinh nữ để giữ kho báu?
Ông Nguyễn Văn Đức, một người dân sống cạnh ngọn núi Bạch Tuyết kể rằng khi ông còn bé tí, toàn bộ cái làng Linh Thượng này chưa có người ở mà là một rừng cây rậm rạp, toàn cây cổ thụ 6-7 người ôm, đầy rẫy những rắn, báo hoa mai (một loại báo to hơn con mèo một chút), người đi chỉ cách nhau vài mét có khi đã không nhìn thấy nhau rồi. Thời chiến tranh chống Mỹ, bom đạn tàn phá, người chết nhiều, người ta bắt đầu chặt dần cây để đóng quan tài dự trữ. Dần dà rừng thưa dần, dân bắt đầu chuyển lên sinh sống và hình thành làng. Ngôi miếu Bạch Tuyết trên ngọn núi có từ bao giờ cũng không ai biết.
Xung quanh ngôi miếu thờ người dân Vân Côn vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện đầy màu sắc liêu trai. Các cụ cao niên trong làng kể với con cháu rằng, cách đây hàng nghìn năm khi phong kiến Trung Quốc đô hộ nước ta, chúng ra sức vơ vét của cải, vàng bạc, châu báu. Đến khi bị đuổi về nước, số lượng vàng bạc quá lớn không nỡ bỏ lại, chúng liền xây dựng một hầm đá để chôn cất. Trong quá trình xây dựng, chúng đã bắt một thiếu nữ trinh trắng, xinh đẹp tên là Bạch Tuyết về nuôi cho “ăn trắng mặc trơn”. Khi hầm đào xong, chúng liền chôn toàn bộ của cải xuống hầm và chôn sống thiếu nữ đồng trinh kia ở cửa hầm để “giữ của”. Chính từ những lời đồn thổi này nên đã có nhiều cuộc tìm kiếm kho báu diễn ra. Tại đây người ta còn phát hiện có một đường hầm dẫn vào ngôi miếu, hàng chục người đã bỏ công sức đào bới những mong sẽ tìm kiếm được vàng bạc, châu báu.
Cũng có một truyền thuyết khác kể rằng ngày xưa có một nàng công chúa xinh đẹp tên là Bạch Tuyết thường rời kinh đi du ngoạn núi sông. Khi đi qua vùng đất này, thấy phong cảnh hữu tình, cô cho dựng một quán để nghỉ ngơi. Khi nàng mất, dân làng tưởng nhớ thường đến quán thắp hương, khấn vái, và cái tên quán Bạch Tuyết được người làng gọi từ bao giờ không ai biết.
Tìm “kho báu” bí mật dưới miếu thờ
Video đang HOT
Cách đây ba chục năm, ông Nguyễn Tài (tên thường gọi là Hận) nổi tiếng khắp huyện Hoài Đức khi bỏ tiền thuê thợ đào quả đồi Bạch Tuyết để tìm kho báu như lời đồn đại. Chúng tôi đã tìm đến để được nghe chính ông kể về thực hư kho báu dưới lòng đất kia. Đã 30 năm trôi qua (từ năm 1983) nhưng ông vẫn nhớ như in từng chi tiết.
Ông kể, năm ông về đây ở, đồi Bạch Tuyết chưa có ai ở mà những năm ấy người ta đào dần đào mòn đất ở quả đồi này bán đi để làm đường, làm nền nhà. Đào mãi hết lớp đất ven chân núi, bỗng người dân phát hiện một con đường bằng đá phiến nằm sâu dưới lòng đất. Khi đó ông Hận đang công tác ở Hòn Gai nghỉ phép về quê, khi tình cờ đi qua, ông Hận thấy dân làng Linh Thượng bàn tán xôn xao nên dừng lại xem. Ông thấy con đường bằng đá ở đây rất kỳ lạ, đó là những viên đá to, rộng chừng 2m, dù bị chôn vùi dưới đất không biết từ bao giờ nhưng trông vẫn mới, còn nguyên cả bụi đá. Lúc đó, những lời đồn thổi về kho báu trên núi Bạch Tuyết càng được dịp lan truyền rầm rầm. Người ta bảo đây chính là con đường hầm dẫn đến kho báu, nhưng tất thảy đều e ngại “hồn ma trinh nữ” kia.
Vốn là người ham tìm hiểu, khám phá nên khi được những người dân làng rủ rê làm “chủ đầu tư”, sau nhiều đắn đo ông Hận đã đồng ý. “Người ta bảo con đường đá này là đường hầm được người Trung Quốc đào để chôn của cải, vàng bạc. Tôi cũng nghĩ nó do bàn tay con người làm ra, thì tất phải có cái gì đó minh chứng cho điều đó, tôi suy nghĩ nhiều về khả năng có thể trong chiến tranh phong kiến, khi triều đình chạy giặc, trong lúc loạn lạc có những binh thư chiến lược không mang theo được nên đào hầm cất giấu ở đây. Bởi vậy tôi nói với những người tham gia đào hầm: Các anh đào nếu được vàng bạc, châu báu thì các anh lấy, còn nếu được những gì thuộc về binh thư chiến lược thì các anh để lại cho tôi để tôi cung tiến vào đền chùa hay bảo tàng” – ông Hận kể lại.
Hồi đấy, kinh tế ông Hận thuộc hàng khá giả nhất vùng nên ông bỏ toàn bộ tiền mua dụng cụ, tiền ăn uống cho những người tham gia đào hầm. Hàng chục thanh niên trong vùng đã gia nhập đoàn tìm kiếm kho báu, những mong sẽ được đổi đời. Ngay những buổi đào đầu tiên cũng có nhiều chuyện lạ, ông Hận bảo nếu phải bây giờ có cho thêm tiền ông cũng không dám đào, hồi đấy thế nào không sợ ma quỷ thần thánh mới dám đứng ra “đầu tư” cho anh em đào. Trước khi đào hầm có ngôi miếu cũ không ai thờ, có anh phá ngôi miếu ấy đi để đào thì về nhà tự nhiên như bị thần kinh mất mấy hôm cứ chửi bố, chửi mẹ. Rồi khi toán thợ đang đào lại có cô gái ở đâu gần đó như bị ma nhập, cứ lên núi liên tục quát mắng: Ai cho phép các anh phá nhà, phá cửa của tôi.
Nhóm thợ đào được khoảng 50m thì con đường đá dẫn đến một tảng đá lớn chắn ngang, không thể đào tiếp nữa nên họ đợi ông đi công tác về “chỉ đạo” tiếp. Ông bảo đào tiếp xung quanh hòn đá lớn đó thì quả nhiên thấy một hòn đá nhỏ tròn xoe, đường kính khoảng 40cm. Nhóm thợ lấy búa tạ đập hòn đá đó, thấy lộ ra một miệng hang, bên trong là một căn hầm rộng khoảng 12m2, soi đèn thì thấy phía hòn đá đối diện có tạc hình một con rùa hướng xuống phía dưới, cạnh đó khoét một cái hốc giống như cái khám đựng đồ thờ cúng.
Ngay chính giữa hầm có một đống đất khoảng nửa m3, nhóm thợ xúc bỏ đống đất thì thấy toàn những than củi, mảnh sành, mảnh đá, có cả những chiếc chén còn nguyên. Lúc đó trong hầm tối om nên ông Hận bảo nhóm thợ đào lên phía nóc hầm để lộ thiên lấy ánh sáng. Mọi người đào lên phía trên thì lại gặp một tảng đá lớn nặng đến 5-6 tấn, có một đỉnh nhọn hoắt chĩa thẳng xuống chỗ mô đất. Không đào được lên phía trên, ông lại chỉ đạo đào xuống phía dưới và lần này lại gặp 3 tảng đá lớn nữa. Nhóm thợ dùng búa tạ phá bỏ tảng đá này khuân lên trên và tiếp tục đào sâu xuống vài mét nữa nhưng không thấy gì. Lúc này đất chặt dần đến nỗi dùng máy khoan cũng không khoan được, hơn nữa sợ nguy hiểm nên ông quyết định dừng cuộc đào bới tìm kiếm kho báu ở đây. Nghe nói sau đó chính quyền cho khai thác thêm vài ngày nữa nhưng cũng không thấy gì.
Cuộc tìm kiếm kho báu khép lại trong nỗi thất vọng tiếc nuối của nhóm thợ. Không biết có hay không sự trừng phạt của thánh thần như lời đồn thổi của người dân nhưng ông Hận ngồi điểm lại thì có tới 2/3 những người tham gia tìm kho báu hồi ấy đã chết, số còn lại cũng không gặp nhiều may mắn. Sau này không biết vô tình hay hữu ý, một anh thợ máy xúc làm công trình ở đây đã xúc đất lấp miệng hang lại, những phiến đá cũ thì bị người dân mang về nhà hết, không ai còn ảo vọng sẽ tìm được kho báu trên ngọn núi này nữa nhưng người ta vẫn tin rằng có một kho báu khổng lồ chưa được khám phá.
Những câu chuyện ma mị
Quán Bạch Tuyết không lớn. Người ta đã xây dựng thêm nhiều hạng mục mới để thờ cúng, “di tích” cũ để lại chỉ là 4 tảng đá lớn nhuốm màu thời gian. Điều lạ là ngay chính giữa những tảng đá này mọc lên rất nhiều cây cối xanh tốt, rậm rạp. Chính những câu chuyện xung quanh núi Bạch Tuyết đã khiến ngôi miếu được nhiều người cho là linh thiêng. Một người dân sống cạnh miếu cho biết, rất nhiều người khi lên núi làm những điều “phạm” đã gặp những hậu quả không hay, người thì gia đình lục đục, người thì bị điên, có người còn bị “bắt mạng”. Trước đây, cứ thi thoảng lại có em học sinh hoặc người dân quanh miếu bị “ma nhập”, đưa lên miếu cúng lễ thì lại khỏi…
Người dân Vân Côn vẫn còn nhớ câu chuyện khủng khiếp xảy ra cách đây hơn chục năm. Đó là vào năm 1997, có một chàng trai cao ráo, đẹp trai, hiền lành ở làng bên cạnh trong một lần lên quán Bạch Tuyết chơi nhìn thấy con rắn bò từ trong núi ra đã dùng một cây gỗ lớn đánh chết. Khi trở về nhà, cậu bắt đầu có những biểu hiện kỳ lạ, mắt đờ đẫn còn mồm thì liên tục đòi lấy nàng Bạch Tuyết. Trông con như người mất hồn, cả gia đình lo lắng mời thầy về xem và làm lễ giải hạn. Thầy phán rằng trong tháng 8 âm lịch phải giữ chàng trai trong nhà, nếu qua được ngày 30 là thoát, không thì sẽ mất mạng. Gia đình nghe thế thì vội vàng cắt cử người luân phiên theo dõi chàng trai không rời mắt.
Một hôm, trong thôn có một đám cưới, cha mẹ chàng trai phải đi dự cưới, họ cẩn thận gọi vài bạn bè của chàng trai đến nhờ trông hộ. Nhưng mải vui chơi, những người bạn này đã quên không để ý đến chàng trai. Đến chiều, khi bố mẹ trở về không thấy con đâu, mọi người hốt hoảng đi tìm và chết đứng khi phát hiện chàng trai đã treo cổ trên xà nhà tự bao giờ, điều lạ là khuôn mặt vẫn hồng hào, thanh thản như còn sống. Khi chàng trai chết, một tấm ảnh để thờ cũng không có, vì vậy người nhà đành chụp lại khuôn mặt chàng trai lúc đó để thờ. Tuy nhiên sau đó, gia đình không đủ can đảm nhìn lại tấm ảnh thờ đó nên đã bỏ đi.
Câu chuyện về chàng trai dần nguôi ngoai và nhiều người đã quên đi. Cho đến hơn chục năm sau, ở làng lại có một sự việc kỳ lạ. Một người phụ nữ sinh sống gần núi thường xuyên lên thắp hương, bỗng một hôm chân tay múa may quay cuồng, miệng liên tục tự nhận mình là Bạch Tuyết Hoa và yêu cầu phải làm lễ cưới, nếu không sẽ giáng họa xuống cả làng. Khi được đưa về nhà, người phụ nữ vẫn tỉnh tỉnh, mơ mơ, liên tục đòi sắm lễ vật để làm lễ cưới. Người nhà đành tìm đến gia đình chàng trai nọ và bàn bạc sắm lễ vật làm đám cưới với hai hình nộm, một nam, một nữ. Kỳ lạ là sau đám cưới, người phụ nữ kia trở lại bình thường, không còn bị “Bạch Tuyết” nhập nữa. Cũng từ đây, sự linh thiêng của miếu Bạch Tuyết được đồn thổi và thêu dệt thêm người dân trong làng và khắp nơi về đây thắp hương lễ bái mong được phù hộ.
Đem những lời đồn đại trên đến Ủy ban nhân dân xã Vân Côn, ông Nguyễn Sỹ Tiến, cán bộ văn hóa Vân Côn cho biết, thực ra trên đỉnh núi này thờ bà chúa Hẹ và quan Thượng Lềnh, chứ không phải thờ hồn ma trinh nữ như người ta nói. Nếu theo truyền miệng thì dưới bốn tảng đá ấy có chôn ấn tín nhưng cũng không ai biết là ấn tín gì. Chuyện có kho báu cũng là lời đồn đại không có cơ sở, và chuyện ma quỷ, thần thánh cũng đã bị thêu dệt lên nhiều.
Theo ANTD
Mộ đá Đống Thếch và những cuộc đào trộm kỳ bí
Từng là "thánh địa" bất khả xâm phạm đối với người dân Mường Động trong thời gian dài dưới chế độ phong kiến và ách thực dân đô hộ, khu mộ cổ Đống Thếch (xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình) với bao câu chuyện ma mị đồn thổi đã trở thành nỗi khiếp sợ trong tâm trí người dân bản địa bao đời.
Nỗi khiếp sợ mang tên Lang đạo
Theo những ghi chép lịch sử còn để lại tới ngày nay, Mường Động xưa kia là một trong bốn vùng Mường cổ. Mường Động gốc ở xã Vĩnh Đồng ngày nay. Thời phong kiến, nơi đây tồn tại một thiết chế lang đạo được cai trị bởi các dòng họ quý tộc như: Đinh, Quách, Bạch, Hà. Cai trị vùng Mường Động chính là dòng họ Đinh mà người đứng đầu là Đinh Như Lệnh. Xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng trăm năm, dòng họ Đinh từ đời này qua đời khác đều nắm giữ chức Thổ tù cai quản Mường Động. Cho đến đời thứ 8, do lập nhiều công lớn nên Đinh Công Kỷ (sinh năm 1582) được vua Lê sắc phong chức "Đô đốc oai lộc hầu", đời đời nối nghiệp làm phiên thần cai quản dân binh 7 xã, họ Đinh cũng được đổi thành Đinh Công. Song, với uy quyền trong tay, dòng họ Đinh Công ngày càng bộc lộ rõ sự dã man, tàn bạo. Đối với người dân Mường Động lúc bấy giờ, tất cả những gì thuộc về nhà Lang đều nhuốm một vẻ huyền bí đến đáng sợ.
Ông Bùi Đức Òm - Chủ tịch UBND xã Vĩnh Đồng kể lại: "Nhà Lang tàn bạo, dã man đến mức, ngay cả trong những câu chuyện truyền miệng của người dân trong vùng cũng gắn cho dòng họ này một vẻ ma quái khiến nhiều người sợ hãi. Trong đó được kể nhiều nhất chính là đám tang của một vị lang. Khi hay tin lang chết, hàng chục voi khỏe được lệnh kéo đá từ tận xứ Thanh về để dựng mộ cho lang tại khu vực Đống Thếch. Ngày lang qua đời, chôn cùng lang sẽ là 5 voi, 7 người và đặc biệt phải có 50 đồng nam, 50 trinh nữ bị chôn sống để theo hầu lang ở bên kia thế giới". Người dân địa phương kể lại, để bảo vệ kho báu của mình, 50 đồng nam và 50 trinh nữ kia sẽ bị chôn sống trong 100 ngày. Trong thời gian đó, những người bị chôn sống sẽ được tiếp lương thực và nước uống bằng những ống tre cắm sẵn. Sau 100 ngày, những chiếc lỗ bị bịt kín lại để mặc cho những người này chết dần chết mòn trong nỗi oán hận. Cũng kể từ đó, dân Mường Động vẫn còn nghe những tiếng khóc than ai oán từ Đống Thếch vang khắp đại ngàn. Chính vì thế các cụ cao niên xưa vẫn dạy con cháu không được lại gần Đống Thếch vì sợ ma bắt. Chuyện kể lại rằng Đống Thếch là nơi có phong thủy đẹp, có gia đình đã liều mạng đưa hài cốt người thân táng vào khu mộ địa này, lập tức trong nhà người thì phát điên, kẻ đột tử không rõ nguyên nhân. Lại có lời đồn về những kẻ liều mạng xông vào khu vực này đều bị lạc lối, bị bắt ở lại làm chồng, làm vợ cho những đồng nam, trinh nữ xưa kia đã bị chôn sống.
Đống Thếch được cho là có dáng miệng rồng, xưa kia đâu đâu cũng là những cây đại thụ che bóng, quanh năm không có ánh sáng. Với diện tích lên tới 3ha, Đống Thếch được chia làm hai khu mộ nổi và mộ chìm. Mộ nổi với những bia, cột đá cao tới vài mét tách biệt hẳn tại khu trên là nơi chôn những người có vai vế trong họ lang. Mộ chìm ở khu dưới chỉ được quây bằng những phiến đá bé. Chính những bia đá kỳ bí đã trở thành dấu ấn biểu hiện uy quyền bất khả xâm phạm, cảnh báo bất cứ sự xâm nhập nào của người dân. Cho đến sau năm 1945, khi quân đội giải phóng vào khai phá khu vực Mường Động, những bí ẩn xung quanh khu mộ đá mới dần dần được hé lộ.
Dưới mộ có đồ cổ không?
Dẫn chúng tôi tìm hiểu về khu mộ cổ, anh Bùi Văn Luân (phụ trách văn hóa xã Vĩnh Đồng) chỉ cho chúng tôi vị trí ngôi mộ của Lang Đinh Công Kỷ: "Bọn trộm mộ đã đào xới tung cả khu vực này, khuân cả những phiến đá to có khắc chữ đi. Giờ cả khu mộ chỉ còn lác đác vài cột đá chữ không còn rõ nét, nhiều ngôi đã bị san phẳng".
Trời về tối trên khu mộ càng trở nên thê lương, lạnh lẽo. Những người nông dân được giao trồng hoa màu tại khu vực cũng nhanh chóng kéo nhau ra về trả lại cho khu mộ vẻ đìu hiu, cô quạnh đến rợn người. Nhóm một đống lửa nhỏ, bằng giọng trầm khàn nhè nhẹ, anh Luân kể rằng khi khu mộ được phát hiện, nhiều kẻ đào trộm mộ tìm về đây với hàng đoàn người ngựa, cuốc thuổng mong kiếm chác từ những tay buôn đồ cổ. Hôm sau, cả đoàn người ngựa biến mất một cách kỳ bí.
Trước những lời đồn thổi mê tín dị đoan, cùng việc đào trộm mộ, từ năm 1972 đến năm 1975, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã có những bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu về các khu mộ Mường ở bốn vùng Mường lớn là Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Kỳ Sơn), Mường Động (Kim Bôi) thuộc tỉnh Hòa Bình. Trong đó, mộ đá Đống Thếch được đánh giá có quy mô và giá trị nghiên cứu hơn cả. Khu mộ cổ Đống Thếch hiện được chia làm hai khu nhỏ trong đợt khai quật, khu A có 15 ngôi mộ có dạng tròn hoặc vuông với các dãy đá bao quanh. Đầu mộ thường chôn ba hòn đá cao, to nhất thành một hàng thẳng. Trên các hòn đá đó thường có ghi tên tuổi, công trạng ngày mất của người dưới mộ. Khu B, theo kết quả khảo cổ thì tìm thấy 7 ngôi mộ quy mô không lớn bằng khu A. Trong các lần khảo cổ, các nhà khoa học còn tìm thấy rất nhiều vật tùy táng, đó là đồ dùng chôn theo người chết, với các loại trang sức, đồ dùng bằng gốm sứ, bằng đồng... có giá trị lịch sử và khảo cổ học. Từ những nghiên cứu trên, khu mộ cổ Đống Thếch đã mở ra rất nhiều điều còn bí ẩn trong các phong tục, sinh hoạt, đồ dùng, trang phục... của người Mường đặc biệt trong tầng lớp lang đạo ngày xưa.
Đáng chú ý nhất là đợt khai quật khảo cổ học năm 1984. Tại đây, các nhà khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa học đã làm sáng tỏ những bí ẩn của khu mộ cổ Đống Thếch. Nhiều hiện vật được phát lộ đã cho thấy sự phát triển khá hưng thịnh của chế độ Lang đạo thời kỳ phong kiến. Những chiếc trống đồng sông Đà được phát hiện ở khu mộ cổ càng khẳng định sự phát triển rực rỡ của nên văn hóa Hòa Bình trên vùng đất Vĩnh Đồng qua các thời kỳ lịch sử. Hiện, tại Bảo tàng tỉnh Hòa Bình đã sưu tầm, lưu giữ và bảo quản được 207 hiện vật bằng gốm sứ như bát, đĩa, lọ, chậu... 260 hiện vật đồ đồng gồm tiền, gương, vòng, hoa tai... 11 hiện vật bạc gồm trâm cài tóc... Đặc biệt là xương voi, xương ngựa và nhiều hình nộm được chôn làm đồ tùy táng.
Ông Bùi Văn Hùng - Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Đồng cho biết: "Sau các đợt khai quật, những lời đồn thổi về việc chôn người sống đã dần bị xóa bỏ, không hề có một lượng lớn di cốt như lời đồn đại. Nhưng cũng từ đó, nạn đào trộm mộ lại rộ lên. Có những thời điểm hàng trăm người cùng máy dò kim loại lật tung cả khu mộ. Nhiều hiện vật quý đã bị mang đi. Đến nay, khu mộ chỉ còn lác đác vài cột đá, không còn hiện vật nên ngôi nhà dùng để trực bảo vệ cũng bị bỏ hoang. Cổng sắt bị người dân tháo ra bán sắt vụn. Giờ khu di tích khảo cổ học cấp quốc gia được giao cho các hộ gia đình cựu chiến binh vừa cấy hái, vừa trông nom".
Khu mộ cổ Đống Thếch đã "rỗng ruột" và có nguy cơ trở thành một khu phế tích, người dân không còn tin vào những chuyện ma quỷ đồn đại, nhưng cũng chẳng mấy mặn mà với khu di chỉ khảo cổ đậm dấu ấn văn hóa Mường này. Nếu không sớm có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng để bảo vệ khu mộ này, trong thời gian ngắn, khu mộ cổ Đống Thếch có thể hoàn toàn biến mất.
Theo ANTD
Giải mã sự thật về "ngôi chùa" cầu được mưa và pho tượng biết "vi hành" Gọi là chùa nhưng thự ra đây chỉ là một ngôi nhà cũ ba gian, lợp ngói ta, bên trong có thờ một bức tượng Phật không biết tạc theo nguyên mẫu nào, cũng không ai biết bức tượng có từ bao giờ. Tuy là chỉ của một dòng họ nhưng "ngôi chùa" lại được cả làng và dân quanh vùng thờ cúng....