Những chuyện linh dị trong cuộc đời thiền sư Thủy Nguyệt
Các thiền sư đắc đạo thường có những khả năng thần thông nhất định và thiền sư Thủy Nguyệt tổ đời thứ 36 tông Tào Động cũng như vậy.
Vượt đường xa cầu đạo
Thiền sư Thủy Nguyệt là vị tổ đầu tiên của dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Phái thiền Tào Động là do sư đi du học Trung Quốc mang về. So vào thế hệ truyền pháp của dòng Tào Động thì ngài là đời thứ 36.
Về lai lịch của sư, sách “Việt Nam Phật giáo sử luận” cho biết: Thiền sư Thủy Nguyệt sinh năm 1636, vốn tên là Đăng Giáp, quê ở làng Thanh Triều, Hưng Nhân, Thái Bình. Sư cùng với 2 đệ tử rời Đại Việt năm 1664 để sang Hồ Châu – Trung Quốc du phương học hỏi trong 3 năm. Đến năm 1667, sư trở về cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Đông Triều, Hải Dương.
Tuy vậy theo Hòa thượng Thích Thanh Từ trong sách “91 thiền sư Việt Nam” thì sư Thủy Nguyệt sinh năm 1637, con nhà họ Đặng. Thuở nhỏ sư được học theo Nho giáo và năm 18 tuổi thi đậu Cống cử tứ trường. Hai năm sau, vì chán cảnh đời bèo bọt nên ngài bỏ nghiệp Nho đến chùa xã Hỗ Đội, huyện Thụy Anh xin xuất gia học đạo. Ở đây sáu năm học các kinh sách nhưng sư chưa thỏa mãn nên xin phép thầy đi du phương tham vấn.
Ảnh minh họa.
Đi tham vấn hết các bậc tôn túc trong nước, mà tâm chưa sáng đạo. Lần lượt đã 28 tuổi đầu, sư quyết chí sang Trung Quốc tầm học. Tháng 3 năm Giáp Thìn (1664) niên hiệu Cảnh Trị triều Lê, Sư cùng hai đệ tử lên đường sang Trung Quốc.
Trên đường đi rất vất vả nhọc nhằn, vừa tới tỉnh Cao Bằng thì một người đệ tử mắc bệnh nặng, thuốc thang không khỏi phải chết. Sư chôn cất bên vệ đường và dặn rằng: “Nay ngươi sức mỏi không thể theo ta được, thôi tạm nghỉ nơi đây, khi ta ngộ đạo trở về sẽ tế độ cho ngươi.” Từ đây chỉ còn hai thầy trò vai mang bình bát chẳng quản ngại đường sá xa xôi, hăm hở tiến tới với tấm lòng vui với đạo.
Được thần nhân chỉ điểm
Năm 1665 sư và học trò đến đất Hồ Châu cũ, bèn lội lặn đến thăm các chùa danh tiếng mà túc duyên chẳng hợp. Đang lúc băn khoăn trong lòng, không biết phải tìm đến đâu thì một hôm sư lên núi nằm nghỉ trên tảng đá lớn, bỗng mộng thấy một cụ già khí sắc trang nghiêm, tinh thần thanh sảng, đi đến trước ngâm rằng:
Điểu hoàng phong hạ lưỡng miên man
Ly khảm gia phu hữu túc duyên
Video đang HOT
Tảo thoát dục thinh vô thượng khúc
Đãng nhai đảnh lễ yết tôn nhan.
Tỉnh dậy, sư đem việc này bàn với người cùng đi rằng: Ở trong câu phía trên chữ Phong có chữ Điểu chữ Hoàng, tức là Phượng Hoàng; câu giữa có chữ Ly chữ Khảm, Ly là hỏa thuộc về Nam, Khảm là thủy thuộc về Bắc, tức là Nam Bắc. Câu kết có chữ Đãng Nhai, chữ Nhai hai chữ Thổ chồng lên nhau, thêm chữ Thạch ở giữa Đãng, tức là núi cao. Đây đúng là thần nhân báo cho ta biết ta có duyên với núi Phụng Hoàng cao, muốn nghe tiếng pháp vô thượng phải lên núi ấy đảnh lễ bậc tôn túc.
Đoán xong, sư cùng đồ đệ lại mang hành lý đi tìm các nơi hỏi thăm núi Phụng Hoàng, quanh quẩn mất hơn một tháng mới tới núi Phụng Hoàng. Ở đây chùa điện nguy nga, núi cao chót vót, tưởng chừng như núi Linh Thứu khi xưa hiển hiện nơi đây.
Tìm đến được núi Phụng Hoàng, sư còn mất mấy tháng nữa ở ngoài cổng chùa để học tiếng sau đó mới được gặp Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo là tổ sư đời thứ 35 tông Tào Động. Qua lần đầu vấn đáp, thiền sư Tri Giáo đã nhận thấy sư Thủy Nguyệt là hàng thượng căn nên cho phép cùng dự vào hàng chúng tăng trong chùa để nghiên cứu. Mấy năm sau, hòa thượng Tri Giáo gọi sư lên hỏi đã thấy tánh chưa? Sư trình chỗ kiến giải của mình và được Hòa thượng ấn chứng rồi cho hiệu là Thông Giác Đạo Nam và bảo trở về nước hoằng đạo.
Những giai thoại linh ứng
Sau khi được pháp, sư Thủy Nguyệt lại cùng đệ tử trở về nước. Đi bộ mất mấy tháng mới về tới Cao Bằng. Hai thầy trò liền đi vào đường cũ ghé lại mộ người đệ tử đã mất lúc trước. Thầy trò dựng tạm lều cỏ, lập bàn Phật tụng kinh siêu độ. Được 3 ngày thì bỗng nhiên trên mộ mọc một hoa sen.
Lúc đó nhân dân ở quanh vùng thấy điều lạ đua nhau đến xem. Nhiều người phát tâm thỉnh sư cúng dường trai phạn, hoặc cầu xin qui y thọ giới. Sau đó sư về Côn Sơn, đi khắp các danh thắng để tìm người khế hợp truyền pháp.
Sau tới Đông Sơn ở huyện Đông Triều, gặp một vị cao tăng trụ trì trên Thượng Long nên sư dừng ở Hạ Long để khuông đồ lãnh chúng. Từ đó sư thường lên núi Thượng Long đàm đạo với vị cao tăng này.
Chùa Nhẫm Dương, nơi thiền sư Thủy Nguyệt từng hoằng hóa. Ảnh: Vietnamnet.
Một thời gian, sư lên Thượng Long nói với vị cao tăng kia rằng: “Nay tuổi của tôi đã già, năm tháng dài lâu, nay là thời thanh bình an ổn, tôi muốn cùng Thầy lên núi nhập Niết-bàn.” Vị tăng trả lời: “Đạo quả của huynh nay đã chín muồi xin hãy về nghỉ ngơi trước, tôi còn ở lại cõi đời để độ những kẻ có duyên, đến khi đạo quả viên thành, tôi sẽ cùng theo huynh chẳng muộn”. Chiều hôm ấy, Sư trở về chùa, cho gọi đệ tử là sư Tông Diễn đến nói kệ truyền pháp và bảo đại chúng rằng: “Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm Dương nếu bảy ngày không trở về, các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy”.
Các hàng đệ tử tín chúng bùi ngùi mà không dám theo. Đợi đúng bảy ngày không thấy sư trở về, tứ chúng cùng nhau kéo lên núi Nhẫm Dương nghe gió thổi mùi hương ngào ngạt, mọi người tìm đến một cái hang thấy sư ngồi kiết già trên tảng đá trong hang. Thân thể sư mềm mại, xông ra mùi thơm giống hương trầm bạch đàn. Bấy giờ là ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thìn, niên hiệu Chính Hòa thứ hai mươi, đời vua Lê Hy Tông (1704), sư thọ 68 tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân sư về hỏa táng chia linh cốt thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm.
Nam Khánh
Theo_Kiến Thức
Quái chiêu "yêu" gái trẻ để đắc đạo trường sinh
Đàn ông Trung Quốc cổ đại chuộng trào lưu săn lùng các cô gái trẻ để yêu hòng thỏa ước nguyện bổ huyết, trường thọ, đắc đạo thành tiên.
Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, đàn ông là biểu tượng của sự cai trị nên rất nhiều người cho rằng: Phụ nữ cần phải giữ trọn đạo, phải chung thủy đến cùng. Đàn ông có thể năm thê 7 thiếp, phong lưu đa tình. Quan điểm này thật sự rất bất công.
Nhưng điều khiến người ta cảm thấy khó hiểu nhất là tại sao đàn ông cổ xưa lại "sùng bái gái mới lớn" như một nguồn năng lượng siêu nhiên. Dân gian gọi đây là " trâu già thích gặm cỏ non", văn minh hơn thì gọi là đôi "chồng già vợ trẻ".
Thời cổ đại, những người có tiền có chức sắc, các danh nhân không nằm ngoài trào lưu này. Vào thời Bắc Tống, Tô Đông Pha một danh nhân văn hóa toàn tài, nhưng thê thiếp của ông ta cũng hàng đàn. Ông ta nổi tiếng bởi sự khí phách hào hùng và sự phóng khoáng, rộng rãi của mình. Cách ông đối xử với thê thiếp của mình cũng trở thành một phong cách điển hình cho giới sĩ đại phu cổ đại. Ảnh minh họa chân dung Tô Đông Pha.
Gặp lúc cao hứng, sẵn sàng lấy thê thiếp của mình tặng người khác coi như món quà, lễ vật. Sau khi tặng hết thì lại tiếp tục nạp mới. Hồng nhan tri kỉ được ông ta ưu ái nhất chính là Vương Chiêu Vân. Khi Tô Đông Pha làm thông phán ở Hàng Châu đã cưới được nàng. Lúc đó ông ta đã 40 tuổi còn nàng chưa đầy 20. Đây chính là một ví dụ điển hình cho câu "trâu già thích gặm cỏ non". Ảnh minh họa chân dung Tô Đông Pha.
Vào thời Đường, giới văn nhân sống cũng rất phong lưu, phóng túng. Ví dụ điển hình chính là Bạch Cư Dị. Ông đã từng có một lượng lớn thê thiếp, đích thân ông còn thị phạm dạy các nàng học ca múa. Tuy là văn nhân nổi tiếng , nhưng Bạch Cư Di cũng có điểm yếu giống như những người đàn ông khác, đều "thích mới nới cũ". .
Trong vòng có chưa đầy 10 năm đã ba lần đổi một loạt thê thiếp. Hoa tàn hương kém sắc phai vì thế nhìn mà thấy chán nên cần phải đổi. Chỉ có điều lúc đó ông cũng không còn trẻ trung gì đã 67 tuổi.
Lấy âm bổ dương là một quan niệm quan trọng trong "phòng trung thuật" của Trung Quốc cổ đại. Với văn hóa đạo gia, trời sinh voi trời sinh cỏ càng là động lực thúc đẩy rộng rãi quan niệm này. Đàn ông muốn bổ ích, trường thọ, thậm chí là trường sinh bất lão, đắc đạo thành tiên nên đã có ý muốn thông qua việc ân ái với gái trẻ để đạt được những mục đích này.
Quan điểm này có từ rất sớm, trong "Bão phác tử nội thiên" của Cát Hồng thời Tấn đã ghi chép rất rõ: Thuật phòng trung, hoặc là bổ cho người lao lực, hoặc là công trị được bệnh, hoặc là có thể lấy âm bổ dương, hoặc là có thể kéo dài tuổi thọ, và đặc biệt là còn tinh bổ não bộ". Đương nhiên, việc "thái âm" cũng cần phải rất chỉn chu và tuân thủ đúng các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Phải lựa chọn người con gái có dáng vóc nhỏ nhắn thướt tha, đầy đặn tràn đầy sức xuân. Tính cách phải dịu dàng hiền thục.Tuy không nhất thiết phải có nhan sắc kiều diễm, nhưng chắc chắn phải trẻ để làm "đối tượng nạp âm". Mẫu phụ nữ này chính là đối tượng có tác dụng bổ trợ cho dương khí tốt nhất.
Thứ hai, nếu cùng lúc quan hệ với nhiều phụ nữ có đủ điều kiện trên thì càng có tác dụng tốt. Nếu chỉ có một người thì cái gọi là "tác dụng bổ dưỡng" cũng sẽ yếu đi rất nhiều.
Điều thú vị là khi không còn xã hội nam quyền mà chuyển sang xã hội nữ quyền thì quan điểm này cũng được chuyển thành "lấy dương bổ âm". Điển hình chính là bà hoàng Võ Tắc Tiên, trong hậu cung của bà ta nuôi hàng đàn trai trẻ để phục vụ cho nhu cầu tình dục của bà hoàng, đồng thời bà ta cũng hi vọng nhờ việc thường xuyên quan hệ với đám trai trẻ có thể lấy được năng lượng dương khí của họ để vạn thọ vô cương.
Theo_Kiến Thức
Đại ca giang hồ bệnh hoạn biến vợ đệ tử thành 'trò chơi tình dục' Hắn dùng chiêu bỉ ổi là điều đàn em đi đón gỗ trong rừng, rồi mò vào nhà hiếp dâm vợ của đàn em bởi không kìm được dục vọng trước sự trẻ trung của gái một con. Được biết đến như ông trùm buôn gỗ khét tiếng của đất Bình Thuận, tên tuổi máu mặt của Hai Chi từng khiến nhiều gia...